Vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam: Một vài đề nghị về cách giải quyết
Một chút lịch sử…
Trong thời gian 14 năm (1961-1975) xung đột quân sự giữa Mỹ và Việt Nam, ngoài số lượng vũ khí và đạn dược khổng lồ, quân đội Mỹ còn sử dụng một số hóa chất như là một phương tiện quân sự. Trong thời gian 10 năm (tính từ 1962 đến 1971) qua sự phê chuẩn của Tổng thống John F. Kennedy và sự đồng thuận của Ngô Đình Diệm, quân đội Mỹ đã phun xuống các làng xã Việt Nam khoảng 77 triệu lít hóa chất, phần lớn là CĐDC (Agent Orange), có chứa dioxin[1]. Dioxin là một hóa chất độc hại vào hàng số 1 mà con người từng biết đến, bởi nó có khả năng gây ra hàng loạt bệnh tật, kể cả ung thư và dị thai, cho những ai bị nhiễm. Điều đáng chú ý là, giới quân sự Mỹ từng biết mức độ độc hại của CĐDC trước khi họ đem sang sử dụng ở Việt Nam [1]. Các hóa chất này được sản xuất và cung cấp theo đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng Mỹ. Tham gia vào hợp đồng này có hơn 20 công ty hóa chất Mỹ, kể cả những công ty lớn và “quen thuộc” như Dow Chemical Co., Monsanto Co., Pharmacia Corp, Hercules Inc, Occidental Chemical Corp, Ultramar Diamond Shamrock Corp, Maxus Energy Corp, Thompson Hayward Chemical Co, Harcros Chemicals Inc và Uniroyal Chemical Inc.
Theo thống kê mới nhất của các nhà nghiên cứu Mỹ, tổng số người Việt Nam, kể cả cựu quân nhân cả hai miền Nam - Bắc, bị phơi nhiễm độc chất là 4,8 triệu người. Hơn 25.000 làng xã với 2,6 triệu hécta đồng ruộng chịu ảnh hưởng của độc chất, trong đó có gần 90% số làng xã bị phun hai lần và khoảng 11% số làng xã bị phun đến 10 lần[2]! Với một lượng hóa chất khổng lồ như thế, có thể nói rằng chiến dịch phun hóa chất xuống miền Nam Việt Nam là một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử chiến tranh trên thế giới, vì từ xưa đến nay, chưa có cuộc chiến nào và ở bất cứ nơi đâu lại chịu một sự phơi nhiễm độc chất nhiều như thế[2].
Sau khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1975, các nhà khoa học Mỹ đã tiến hành một loạt nghiên cứu quy mô trên cựu quân nhân Mỹ về tác hại của CĐDC hơn 20 năm liền. Các nghiên cứu dịch tễ học này cho thấy những cựu chiến binh từng bị phơi nhiễm độc chất có nguy cơ bị một số bệnh ung thư, tiểu đường và sinh con với dị tật bẩm sinh cao hơn những người không bị phơi nhiễm độc chất[1].
Trước các phát hiện khoa học đó, năm 1984, một nhóm cựu chiến binh Mỹ đã đệ đơn kiện các công ty hóa chất Mỹ về những tác hại đối với sức khỏe mà họ phải chịu khi tham gia chiến dịch phun độc chất. Vụ kiện, dưới sự chủ trì của Thẩm phán Jack Weinstein, không được xét xử, mà chỉ kết thúc bằng một thỏa thuận ngoài tòa. Theo đó, các công ty hóa chất đồng ý lập ra một quỹ y tế xã hội khoảng 180 triệu USD nhằm trợ cấp cho các cựu chiến binh Mỹ từng bị ảnh hưởng bởi CĐDC.
Ngày 30.1.2004, Hội nạn nhân CĐDC Việt Nam quyết định đệ đơn kiện các công ty hóa chất Mỹ. Các công ty này bị kiện với 10 tội danh, như tội làm lợi bất chính, gây thương tích cho thường dân..., kể cả là tội phạm chiến tranh. Vụ kiện tuy còn trong giai đoạn đầu nhưng đã gây được sự chú ý của thế giới về nạn nhân dioxin ở Việt Nam (trước đây nói đến dioxin, người ta chỉ nghĩ đến cựu chiến binh Mỹ). Dư luận thế giới đồng loạt và nhiệt tình đứng về phía các nạn nhân. Hàng triệu chữ kỹ của công dân khắp năm châu là một biểu hiện sự ủng hộ của họ dành cho nạn nhân Việt Nam . Sau một thời gian ngắn nghe bằng chứng từ phía nguyên đơn và bị đơn, ngày 10.3.2005, Thẩm phán Jack Weinstein thuộc tòa án địa hạt Brooklyn, New York, đã công bố phán quyết trong một tài liệu dài 233 trang[3]. Trong đó, ông Weinstein đề cập đến các trường hợp kiện cáo trước đây, đến các khía cạnh lý thuyết của luật pháp Mỹ và luật pháp quốc tế và kết luận rằng: “Các yêu sách của phía nguyên đơn không có cơ sở pháp lý dưới bất cứ luật nội địa, hay luật quốc gia, hay luật tiểu bang, hay luật quốc tế. Vụ kiện không được xét xử”.
Ngày 19.12.2006, sau chuyến dự hội nghị APEC tại Việt Nam của Tổng thống George W. Bush, Quốc hội Mỹ đã tuyên bố rằng họ sẽ xem xét thành lập một ngân quỹ vào năm 2007 để giúp làm sạch môi trường ở những nơi bị ô nhiễm độc chất trong thời chiến. Trước đó, phát biểu trên báo chí, một phụ tá của một thượng nghị sĩ Mỹ cho biết, Chính phủ Mỹ đã nhận thức được hậu quả của CĐDC ở Việt Nam và sẽ cùng làm việc với Chính phủ Việt Nam để giải quyết vấn đề cho thỏa đáng cả đôi bên. Trong nhiều bài viết trước ở trong và ngoài nước, tôi cũng đã từng đề nghị lập một quỹ để làm sạch môi trường và giải quyết một số vấn đề khác. Nhân dịp này, xin đề nghị thêm vài điểm xung quanh vấn đề “bồi thường”.
Hành lang công lý và hình thức trợ giúp
Kinh nghiệm từ Thế chiến thứ II và cuộc chiến ở Nam Tư cho thấy, vấn đề CĐDC ở Việt Nam có thể được tiếp cận bằng 3 “hành lang công lý” cho nạn nhân: Tòa án công lý quốc tế (ICJ), các tòa án của Việt Nam và một quỹ tài trợ quốc tế. Vì lý do chính trị và luật pháp quốc tế, hai phương tiện đầu (ICJ và toà án trong nước) không thực tế và khó áp dụng cho trường hợp Việt Nam . Do đó, chỉ có hành lang sau cùng là thực tế nhất: Đó là thiết lập một quỹ tài trợ quốc tế cho nạn nhân CĐDC tại Việt Nam . Có thể quỹ này sẽ do các nước trên thế giới từng tham chiến ở Việt Nam , có lẽ phần lớn từ Mỹ, đóng góp. Quỹ nên được một hội đồng quốc tế đứng ra quản lý và điều hành dựa vào những tiêu chí nghiêm chỉnh mà các bên đều nhất trí. Thông qua quỹ này, có thể thực hiện một số việc thực tế như sau:
Thứ nhất,giúp đỡ những nạn nhân bị nhiễm độc chất và bị những bệnh được công nhận là do CĐDC hay dioxin gây ra. Viện Y khoa Mỹ đã chính thức công nhận CĐDC là nguyên nhân gây ra một số bệnh như ung thư tế bào mềm, ung thư máu dạng Non-Hodgkin và Hodgkin, ung thư tuyến tiền liệt, ban clor, chứng nứt đốt sống,… Chính vì thế, năm 1984, các công ty hóa chất có liên quan đến việc sản xuất và cung cấp độc chất da cam cho quân đội Mỹ đã đồng ý bồi thường cho các cựu quân nhân Mỹ một số tiền khoảng 180 triệu USD. Ở Việt Nam, hình thức bồi thường có thể bao gồm việc điều trị những bệnh được công nhận là do phơi nhiễm độc chất gây ra, tạo công ăn việc làm cho những cư dân trong các vùng bị nhiễm, lập bệnh xá và trường học để nâng cao đời sống vật chất và trình độ văn hóa cho nạn nhân và cư dân tại những nơi bị nhiễm độc chất.
Thứ hai,quỹ nên bỏ ra một số ngân khoản để làm sạch môi trường tại những nơi bị nhiễm nặng như Biên Hòa, A Lưới, A Sao,... Sau 10 năm, 50% nồng lượng dioxin vẫn còn tồn tại trong con người, và nếu không tồn tại trong con người thì tồn tại trong môi trường. Do đó, tác hại của dioxin rất lâu dài. Xin dẫn một ví dụ: Năm 1976, ở Ý một vụ tai nạn xảy ra tại nhà máy gần thị trấn Seveso đã thải ra môi trường xung quanh khoảng 30 kg dioxin. Ấy thế mà cho đến nay, tức sau hơn 30 năm xảy ra tai nạn đó và 30 năm làm sạch môi trường, các nhà nghiên cứu Ý vẫn phát hiện tác hại của dioxin đối với sức khỏe người dân. Ở Việt Nam hiện nay, kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy tại các địa điểm này, nồng độ dioxin rất cao, có khi cao hơn 130 lần nồng độ an toàn cho phép, vì chất độc đã lắng đọng xuống đất, nhất là các nơi bùn lầy. Do đó, nhu cầu làm sạch môi trường tại những nơi này phải được xem là một ưu tiên hàng đầu.
Thứ ba,quỹ nên hỗ trợ và giúp đỡ thành lập một viện nghiên cứu quốc tế về CĐDC và dioxin. Viện sẽ quy tụ nhiều chuyên gia trên thế giới về hóa học, y học, môi trường học và dịch tễ học để tiến hành những nghiên cứu cơ bản cũng như nghiên cứu lâm sàng xác định cơ chế tác hại của dioxin và CĐDC trên con người và môi trường. Viện cũng có thể phục vụ như một trung tâm đào tạo các nhà khoa học tương lai chuyên về môi trường học và y tế - môi trường học. Đây là một việc làm mang ý nghĩa quốc tế vì nó sẽ cung cấp thông tin khoa học quý báu vào kho tàng tri thức của con người về tác hại của dioxin.
Thứ tư,ngay bây giờ Chính phủ và các công ty hóa chất Mỹ có thể tài trợ để Việt Namcó thể tiến hành thu thập dữ kiện khoa học về tác hại của CĐDC tại Việt Nam . Nghiên cứu này nhắm mục tiêu phát triển cho được một phương pháp để ước định mức độ phơi nhiễm độc chất cho từng cá nhân trong những vùng từng bị ảnh hưởng độc chất; thiết lập mối liên hệ giữa mức độ phơi nhiễm độc chất da cam và các bệnh như ung thư, dị tật bẩm sinh, tiểu đường và tỷ lệ giới tính; thẩm định tác hại của dioxin hay CĐDC đối với cấu trúc di truyền (gen) trong các nạn nhân thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba. Trong suốt gần 30 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, trên các diễn đàn khoa học quốc tế, số lượng bài báo khoa học liên quan đến CĐDC từ Việt Nam còn cực kỳ khiêm tốn (chưa đến con số 10). Phần lớn những nghiên cứu này chỉ ở dạng mô tả, chưa đi sâu vào vấn đề. Do đó, đây là một nhu cầu cấp bách, bởi vì dù quy mô lớn như thế nhưng tác hại của CĐDC và dioxin trong người dân Việt Nam từng bị phơi nhiễm độc chất trong thời chiến cho đến nay vẫn chưa rõ ràng.
Có thể nhìn hệ quả của CĐDC ở Việt Nam như là một vết thương chiến tranh mà cuộc chiến, dù đã chấm dứt từ 30 năm trước đây, để lại. Ngày nay, người nước ngoài đến Việt Namchắc sẽ không thấy vết thương đó, mà họ chỉ nhìn thấy một nước Việt Nam đang trên đường phát triển kinh tế nhanh chóng. Nhưng trên thực tế, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, và những cư dân sống trong các vùng từng bị ảnh hưởng CĐDC trong thời chiến tranh là những người còn nghèo hơn cả những người nghèo. Họ cần được giúp đỡ.
Vấn đề hệ quả của CĐDC tại Việt Nam có thể nhìn qua hai khía cạnh: Pháp lý và đạo lý. Không chỉ người Mỹ, mà mọi dân tộc khác trên hành tinh này, kể cả dân tộc Việt Nam , cũng có quyền được sống trong hòa bình, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Sau Thế chiến thứ II, nước Đức đã nhìn nhận trách nhiệm của họ về các hành vi sai trái trong thời chiến, không chỉ vì nạn nhân của chiến tranh, mà còn vì tương lai nước Đức. Người Đức hiểu rằng một quốc gia không dám nhìn nhận cái sai trái của mình trước con em mình và trước thế giới thì không thể nào khôi phục được đạo đức. Ngày nay, nước Mỹ là cường quốc hào hiệp số một trên thế giới, và nếu Mỹ muốn dương cao ngọn cờ đạo lý trên trường quốc tế thì Mỹ cũng nên nhìn nhận lỗi lầm trong chiến dịch phun độc chất xuống Việt Nam trong thời chiến, và có hành động thiết thực nhằm xoa dịu nạn nhân của độc chất. Đó là việc không cần đến chốn pháp đình, mà chỉ cần đến đạo đức của người Mỹ.
Năm 1864, khi Abraham Lincoln đắc cử tổng thống, Karl Marx đại diện cho Hiệp hội công nhân quốc tế đã gửi lời chúc mừng. Lúc đó, Charles Francis Adams, một Bộ trưởng của Mỹ ở Luân Đôn thay mặt Lincoln đã trả lời Marx: “Chính phủ Mỹ ý thức sâu sắc rằng chính sách của Mỹ, hiện nay cũng như trong quá khứ […] là phấn đấu cho sự bình đẳng và công lý đúng đắn cho tất cả các nhà nước, tất cả con người [...]. Quốc gia không phải tồn tại một cách riêng lẻ và chỉ cho riêng quốc gia đó; quốc gia tồn tại để cổ vũ cho sự thịnh vượng và hạnh phúc của nhân loại bằng những hợp tác nhân đạo”. Đó là một lý tưởng nằm trong những tuyên bố gần đây của Quốc hội Mỹ. Hy vọng những đề nghị cụ thể trên đây sẽ được xem xét, thực thi để phần nào xoa dịu những mất mát cho nạn nhân CĐDC ở Việt Nam
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Văn Tuấn. CĐDC, dioxin và hệ quả. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh 2004.
[2] Stellman JM, et al. The extent and patterns of usage of Agent Orange and other herbicides on Vietnam . Nature 2003; 422: 681-687.
[3] Nguyên văn bản phán quyết (tiếng Anh) có thể xem tại địa chỉ: http://www.ffrd.org/AO/10_03_05_agentorange.pdf và http://Vietnam-Dioxine.org
(*) Tác giả là giáo sư y học thuộc Đại học New South Wales (Australia) và là tác giả cuốn sách “CĐDC, dioxin và hệ quả”, Nhà xuất bản Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 2004.








