Vai trò xã hội của trường Đại học
Tôi có vinh hạnh được các vị tin cậy, cảm động và phấn khởi vì trọng trách các vị giao cho. Tôi biết ơn Hội đồng quản trị vì niềm tin đối với tôi và tôi cảm ơn tất cả mọi người đến dự nghi lễ này. Tôi mang ơn ba vị tiền nhiệm của tôi, ngồi phía sau , đã cùng tham dự buổi lễ ngày hôm nay. Và tôi càng biết ơn họ nhiều hơn – vì tất cả những gì họ đã làm cho trường Harvard và vì những điều mỗi người đã hào hiệp tặng cho tôi - lời khuyên, trí tuệ, sự ủng hộ.
Tôi cảm động vì những lời chúc mừng của ban lãnh đạo nhà trường, các khoa, các sinh viên, cựu sinh viên, của vị Chủ tịch đáng kính và của Ngài John Hope Franklin nổi tiếng - người suốt đời vì sự nghiệp trước tác sử học. Tôi biết ơn các nhà lãnh đạo của hai trường Bostonvà Cambridge đã đến để hoan nghênh người hàng xóm mới. Tôi hơi ngạc nhiên nhận thấy hầu hết các vị khả kính đó đều ngồi dưới dất ở các hàng đầu. Và tôi xin gửi lời chào đặc biệt tới các thầy cô giáo cũ của tôi đang ở đây – các giáo viên từ trường sơ đẳng, trung học, đại học và trên đại học - những người đã dạy dỗ tôi ham mê học tập và yêu những ngôi trường của mình.
Chúng ta tập họp tại đây để làm lễ lễ kỷ niệm này hơi khác với các dịp truyền thống Tháng Sáu của chúng ta. Lễ Phát Bằng là một nghi lễ chuyển lớp hàng năm cho hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp; còn hôm nay đánh dấu một nghi lễ chuyển lớp cho trường Đại học. Ở Lễ Phát Bằng, chúng ta choàng những chiếc áo thụng đánh dấu các mối liên kết của chúng ta với các truyền thống học thuật uyên bác cổ xưa nhất . Trong dịp này đây, đặc biệt, đoàn diễu hành không chỉ bao gồm cộng đồng Harvard, mà còn cả 220 vị học giả - đại diện cho các trường đại học, cao đẳng trên cả nước và thế giới. Tôi hoan nghênh và cảm ơn các vị khách của chúng ta, vì sự hiện diện của các vị nhắc nhở chúng ta những gì chúng ta làm ngày hôm nay và những gì mỗi ngày chúng ta làm ở trường Harvard liên kết chúng ta với các trường đại học và các xã hội trên toàn cầu.
… Trong nửa thế kỷ vừa qua, các trường cao đẳng và đại học Mỹ đã cùng chia sẻ một cuộc cách mạng, phục vụ cả biểu tượng và động cơ của việc mở rộng quyền công dân, bình đẳng và cơ hội – cho người da đen, phụ nữ, người Do Thái, người nhập cư va mọi người khác trước đây bị phân biệt theo chỉ tiêu hạn ngạch hoặc bị loại trừ khỏi cộng đồng. Sự hiện diện của tôi hôm nay - và thực ra của nhiều người khác nữa trên diễn đàn này là điều không thể tưởng tượng được chỉ vài năm trước đây thôi. Những ai trách cứ rằng các trường đại học không thể đổi thay, cần phải lưu ý đến sự biến chuyển này, đến sự kiện chúng ta đã khác ngay cả với các trường đại học ở giữa thế kỷ XX. Và những ai hằng mong đợi một thời kỳ vàng son đã mất của nền giáo dục đại học cần nghĩ đến số người rất hạn hẹp đã khẳng định nhưng không chứng minh được rằng điều hoang tưởng đã thực sự giúp ích. Trường cao đẳng trước đây chỉ hạn chế trong một số ít người ưu tú, nay phục vụ cho nhiều người, không chỉ một số nhỏ. Tỷ trọng người dân ở độ tuổi bậc cao đẳng ngày nay ghi tên vào đại học đã đạt 4 lần so với năm 1950, 12 lần so với trước năm 1920. Xã hội chúng ta là một thế giới khác hẳn và tốt hơn rất nhiều.
Tại những trường như Harvard và các trường ngang hàng, cuộc cách mạng này đã được xây dựng trên quan điểm rằng việc nhập học, như Jeffersonđã đề xướng, phải dựa trên tài năng, chứ không phải trên hoàn cảnh/ tình huống. Từ cuối những năm 1960, Harvard khởi động những nỗ lực kiên trì để tìm ra và thu hút những sinh viên thiểu số lỗi lạc; trong những năm 1970, trường dần dần xóa bỏ định ngạch hạn chế phụ nữ ở một phần tư số nhập học cao đẳng. Mới đây, Harvard đã hết sức cố gắng để ra thông điệp rằng trường cao đẳng hoan nghênh con em các gia đình từ bên kia giới hạn kinh tế ( across the economic spectrum: thấp hơn diều kiện kinh tế trung bình). Kết quả là trong 3 năm qua đã đạt mức tăng 33% về số lượng sinh viên từ các gia đình có thu nhập dưới 60.000,đôla/năm. Ký túc xá và nhà ở của Harvard là những môi trường đa dạng nhất trong đó nhiều sinh viên chúng ta sống thoải mái.
Tuy thế vấn đề nhập học và phí tổn vẫn tồn tại – cho các gia đình trung lưu gặp tai họa đột ngột, và cho các sinh viên tốt nghiệp chuyên nghiệp có thể phải gánh ghịu nợ nần nặng nề vì làm việc ở những lĩnh vực với đồng lương khiêm tốn. Khi tấm bằng đại học xem ra không thể thiếu được như bằng tú tài trước kia cho khả năng lưu chuyển và thành công, thì chi phí cho các chương trình cao này càng trở nên lớn hơn.
Sự mong mỏi và cần thiết thấy rõ của giáo dục bậc cao đã tăng thêm những lo lắng của nhiều người. Liệu mình có thể vào được không? Liệu mình có khả năng chi trả được chăng? Nỗi lo toan thể hiện cả trong sự oán giận sâu xa và trong những đợi chờ hầu như không thể thực hiện được. Giáo dục bậc cao không thể đơn độc đảm bảo khả năng lưu chuyển và sự bình đẳng trong tâm khảm của Giấc mơ Hoa Kỳ. Nhưng chúng ta phải hoàn toàn gánh vác lấy nghĩa vụ để có thể sẵn sàng và cống hiến. Chúng ta phải đoán chắc rằng các sinh viên tài năng có thể đến với Harvard, rằng họ biết mình có thể đến được, và rằng họ biết chúng ta cần họ đến đây. Chúng ta cần đảm bảo rằng chi phí không làm đổi hướng các sinh viên trong việc theo đuổi những đam mê và ước mơ của họ.
Nhưng nỗi lo của người Mỹ về giáo dục đại học không chỉ là về chi phí đơn thuần. Bài toán sâu hơn ở đây là còn thiếu rất nhiều sự hiểu biết và nhất trí về điều mà các trường đại học phải làm và sẽ ra sao. Các trường đại học là những cơ sở bí ẩn với nhiều mục tiêu họ không bộc lộ rõ ràng và chưa chứng minh thỏa đáng. Hệ quả là sự ngộ nhận của công chúng, vào lúc mà nền giáo dục đại học đã trở nên một nguồn lực xã hội không thể thiếu, đã gây ra vô vàn đòi hỏi về “trách nhiệm” lớn hơn của các trường cao đẳng và đại học. Các trường đại học phải thực sự có trách nhiệm. Chúng ta, những người trong cuộc cần chủ động xác định mình phải chịu trách nhiệm về những gì. Chúng ta được yêu cầu báo cáo tỷ lệ tốt nghiệp, thống kê số sinh viên nhập học, số điểm về các thí nghiệm tiêu chuẩn hóa nhằm xác định “giá trị gia tăng” của những năm học ở trường, chi phí cho các công trình nghiên cứu , số lượng ấn phẩm xuất bản của các khoa. Thế nhưng, những biện pháp này không đơn phương nắm bắt, thể hiện được mọi thành tựu, chưa kể đến những “khát vọng tự thân” của các trường đại học. Nhiều số liệu đo lường này có tầm quan trọng cần biết, và chúng soi rọi lên những bộ phận cụ thể của công cuộc chúng ta theo đuổi. Song mục tiêu của chúng ta còn nhiều tham vọng hơn, và trách nhiệm của chúng ta lại càng khó giải trình hơn.
Hãy để tôi mạo muội đưa ra một định nghĩa. Điều cốt tử của một trường đại học là nó chịu trách nhiệm duy nhất với dĩ vãng và tương lai – không đơn giản hoặc trước tiên với hiện tại. Một trường đại học không chỉ hướng vào kết quả của quý sau, càng không phải ở chỗ sinh viên sẽ có cương vị gì sau tốt nghiệp. Đó là việc hướng vào học vấn để định hình, đúc khuôn cho cả cuộc đời người, học vấn để truyền tải di sản qua nhiều thiên niên kỷ, học vấn để tạo hình cho tương lai. Một trường đại học nhìn cả về phía sau và phía trước theo những cung cách để nó “phải”- và thậm chí “cần” xung đột với motị quan tâm và đòi hỏi tức thời của công chúng. Trường đại học ký những hợp đồng cam kết vô thời hạn , và những khoản đầu tư này đưa đến hiệu quả ta không dự báo được và thường không đo đếm được. Trường đại học là người quản gia, quản lý của truyền thống đương thời – ở Widenet và Houghton và 88 thư viện khác, ở Fogg và Peabody, ở các khoa kinh điển, lịch sử và văn học của chúng tal Chúng ta không thoải mái với những cố gắng đó bằng cách định nghĩa chúng như là phương tiện. Như có tác dụng đo đếm được cho những nhu cầu đương đại cá biệt. Thay vào đó, chúng ta theo đuổi nó một phần “vì bản thân nó”, bởi nó xác định cái mà qua nhiều thế kỷ đã làm chúng ta trở thành “người”, không phải vì nó có thể đẩy mạnh tính cạnh tranh toàn cầu của chúng ta.
Chúng ta theo đuổi nó vì những nỗ lực ấy đem lại cho chúng ta với tư cách là các cá nhân và các xã hội một tầm nhìn sâu rộng mà chúng ta không tìm được trong thời hiện tại khó tránh khỏi cận thị này.Chúng ta theo đuổi nó như chính ta cần thức ăn và chỗ ở để tồn tại, cần công việc và giáo dục để cải thiện tất cả mọi thứ của chúng ta, và cũng vì là con người, chúng ta tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta phấn đấu để hiểu mình là ai, từ đâu đến, đang đi tới đâu, và tại sao.
Đối với nhiều người, bốn năm của cuộc đời đại học chỉ là thời gian nghỉ xả hơi giữa chừng cho phép tha hồ thám hiểm các vấn đề cơ bản đó. Nhưng việc tìm kiếm ý nghĩa (cuộc đời) là một cuộc truy đuổi không ngưng nghỉ luôn luôn diễn dịch, luôn luôn gián đoạn và xác định lại nguyên trạng, luôn luôn trông mong, không bao giờ thỏa mãn với điều đã tìm ra. Một câu trả lời chỉ đơn thuần làm bật ra câu hỏi tiếp. Điều này trong thực tế là đúng cho mọi đối tượng học, cho các môn khoa học tự nhiên và xã hội cũng như nhân văn, và do đó cho chính cái cốt lõi mà các trường đại học đang hướng đến.
Do bản chất, các trường đại học nuôi dưỡng một văn hóa luôn sôi động và thậm chí bướng bỉnh. Điều này nằm trong trung tâm trách nhiệm của trường đại học đối với tương lai. Giáo dục, nghiên cứu, giảng dậy phải luôn luôn thay đổi- chuyển biến các cá nhân khi họ học tập, chuyển biến thế giới khi chính các yêu cầu do mình làm khác đi sự hiểu biết của mình về thế giới, chuyển biến các xã hội khi chúng ta thấy kiến thức của mình được diễn dịch thành chính sách - các chính sách giống như thể loại được phát triển ở Harvard để ngăn chặn những thể thức cho vay không công bằng, hoặc để tăng diện tích nhà ở, hoặc để ngăn ngừa phổ biến vũ khí hạt nhân, hoặc để điều chế các liệu pháp, như kiểu các nhà nghiên cứu của ta đã thiết kế để điều trị chứng suy thoái, hoặc để chống bệnh than. Phát triển kiến thức có nghĩa là thay đổi. Nhưng thay đổi có khi không dễ chịu, vì nó luôn chứa đựng tổn thất lẫn thu hoạch, mất phương hướng cũng như khám phá. Như Machiavelli từng viết, nó không có một thể thống nhất.
Thế nhưng, đối mặt với tương lai, các trường đại học phải chấp nhận sự thay đổi không ổn định, nền tảng cho mỗi bước tiến lên về hiểu biết.
Chúng ta sống giữa thời đại mà những phát triển khoa học đầy kịch tính gây xúc động như bất cứ một thời kỳ nào từ thế kỷ XVII lại đây. Trách nhiệm của chúng ta đối với tương lai đòi hỏi chúng ta phải đứng trên tiền tuyến của những chuyển biến này. Chúng ta phải tự tổ chức sao cho có thể lao vào cuộc thám hiểm đó như chúng ta đã từng bắt đầu sáng tạo ra Học viện Broad, thành lập các khoa liên trường, sáng lập trường Kỹ thuật công trình và khoa học ứng dụng. Chúng ta phải vượt các rào cản cả trong và ngoài trường Harvard có thể làm chậm hoặc hạn chế công việc đó, và chúng ta phải cung ứng các nguồn lực, các tiện nghi - giống như những tòa nhà khoa học mới ở cả Cambridge lẫn Allston - để ủng hộ công cuộc này. Nghĩa vụ của chúng ta với tương lai làm nảy sinh những đòi hỏi bổ xung. Duy nhất các trường đại học là địa bàn của những triết gia và nhà khoa học. Chúng ta phải gấp rút đặt ra những vấn đề về đạo đức và ý nghĩa có thể giúp chúng ta đối diện với tầm vóc nhân bản, xã hội và luân lý của mối quan hệ đang thay đổi giữa chúng ta với thế giới tự nhiên.
Tính chịu trách nhiệm với tương lai đòi hỏi chúng ta vượt qua nhưng biên giới về địa lý và tri thức. Chính vì chúng ta sống trong một thời đại rút ngắn khoảng cách giữa các lĩnh vực, các môn học, nên chúng ta cùng cư trú tại một thế giới ngày càng có tính xuyên quốc gia trong đó bản thân kiến thức là mối liên kết mạnh nhất.Cuộc sống của chúng ta ở Cambridge và Boston không thể bị tách biệt với tương lai của phần trái đất còn lại. Chúng ta chia sẻ cùng một khí hậu thay đổi, chúng ta nhiễm và truyền những chứng bệnh như nhau, chúng ta cùng tham gia vào một nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải nhận thức được tính chịu trách nhiệm với một thế giới rộng lớn hơn, vì như John Winthrop đã cảnh báo từ năm 1630 “chúng ta phải coi như mình là một thành phố trên một ngọn đồi. Con mắt của tất cả mọi người đều ngước nhìn lên chúng ta”/
Harvard vừa là suối nguồn vừa là biểu tượng của kiến thức không ngừng mở rộng mà tương lai của trái đất phụ thuộc vào đó. Và chúng ta phải đóng vai trò tích cực, có tính chất phản chiếu trong tầm địa lý mới của sự học tập. Giáo dục đại học đang đâm chồi nảy nở dưới những dạng thức vừa giống, vừa khác với nền giáo dục của chúng ta. Các trường đại học Mỹ được ganh đua rộng rãi, nhưng những người bắt chước làm theo chúng ta thường bộ lộ sự đánh giá có giới hạn về các nguyên tắc tự do tìm hiểu và về nền văn hóa bướng bỉnh có tính sáng tạo vốn là đặc điểm của ta.
Chân lý vĩnh hằng “Veritas” trong tấm chắn Harvard thoạt đầu nhằm viện dẫn những mặt tuyệt đối của sự phát hiện thánh thiện, của những chân lý bất khả xâm phạm trong dòng Thanh giáo. Ngày nay chúng ta hiểu điều này hoàn toàn khác. Sự thật là một ước nguyện, không phải là một quyền sở hữu. Thế nhưng trong chuyện này, chúng ta – và tất cả mọi trường đại học được đặc trưng bởi tinh thần tranh luận và tự do tìm hiểu - lại thách thức và thậm chíđe dọa những ai muốn chấp nhận những điều tin chắc rành rành. Chúng ta phải tự cam kết đứng ở vị trí không thoải mái của sự hoài nghi, ở thái độ khiêm nhường luôn tin rằng còn có nhiều điều hơn cần biết, cần dạy và cần hiểu.
Những loại hình về tính chịu trách nhiệm mà tôi đã mô tả, là thể hiện một đặc quyền và cũng là một trọng trách. Chúng ta có thể sống ở Harvard trong một thế giới của tự do trí tuệ, của truyền thống gây và truyền cảm hứng, của các nguồn lực phi thường, vì chúng ta là thành viên của cái tổ chức kỳ dị và đáng kính trọng được mệnh danh là trường đại học. Chúng ta cần quán triệt hơn nữa và thúc đẩu các mục đích của nó – không chỉ đơn giản là tự giải thích mình trước một công chúng thường hay phê phán, nhưng để duy trì lợi ích của riêng mình. Chúng ta phải hành xử không phải như các sinh viên và nhân viên, các nhà sử học và chuyên gia máy tính, các luật sư và nhà vật lý, các nhà ngôn ngữ học và xã hội học, mà như các công dân của nhà trường, với những nghĩa vụ về khối cộng đồng trí não này.
Chúng ta phải xem mình có trách nhiệm với nhau, vì chúng ta tạo thành cái thiết chế đến lượt nó xác định những khả năng của chúng ta. Tính chịu trách nhiệm với tương lai bao quát việc quan tâm lo toan đặc biệt đến các sinh viên, vì họ chúng ta không chỉ chịu trách nhiệm với trường Đại học Harvard vào lúc này, năm 2007, mà chính vì bản thân khái niệm về trường đại học đã phát triển một cách tự nhiên từ gần một thiên niên kỷ.
Không dễ dàng gì thuyết phục một quốc gia hay cả thế giới phải tôn trọng, ít ra là ủng hộ các thiết chế cam kết với những giả định cơ bản của một xã hội thách thức. Nhưng nghĩa vụ của chúng ta là đưa ra lý lẽ để vừa giải trình mục đích của chúng ta, vừa hoàn thành mục đích đó được tốt sao cho những thiết chế quý báu đó tồn tại và thịnh đạt trong thế kỷ mới này. Harvard không thể đơn độc làm được việc đó. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng Harvard có một vai trò đặc biệt.Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây; đó là lý do tại sao nó có ý nghĩa với ta nhiều đến như vậy.
Tuần lễ trước tôi nhận được một phong bì màu nâu đã ký gửi vào văn thư lưu trữ của trường đại học từ 1952 bởi James B.Conant, vị Chủ tịch thứ 23 của Harvard. Ông để lại chỉ thị rằng phong bì này phải được mở ra do Chủ tịch Harvard vào thời gian mở đầu của thế kỷ sau “và không được mở trước đó”. Tôi đập vỡ xi gắn trên bao gói và thấy một bức thư đáng chú ý của một vị tiền nhiệm. Thư được gửi cho “Ngài quý mến của tôi”. Conant đã viết trong một cảm giác nguy cấp đến nơi. Ông sợ Chiến tranh Thế giới thứ Ba sắp tới sẽ khiến cho “sự phá hủy các thành phố của chúgn ta trong đó có Cambridge hoàn toàn hiện thực”.
“Mọi người chúng ta chẳng ai biết được” ông viết tiếp, “làm sao để thế giới tự do qua khỏi thảm họa trong 50 năm tới”. Nhưng khi hình dung đến tương lai của Harvard, Conant chuyển từ linh tính về nguy cơ sang niềm tin mạnh mẽ. Nếu như “các nhà tiên tri về thần thế” được chứng minh là sai bét, nếu như có một Chủ tịch Harvard còn sống nhận để đọc bức thư của ông ta, thì Conant tin chắc trường đại học này ra sao. “Bạn sẽ nhận được thông điệp này và phụ trách một trường mà tôi có vinh dự được chủ trì...Ngôi trường này...(Harvard) sẽ duy trì những truyền thống của tự do học thuật, của khoan dung dị giáo, tôi cảm thấy yên tâm”. Chúng ta phải cống hiến đời mình để đoạn chắc rằng ông ta tiếp tục đúng, chúng ta phải chia sẻ và ủng hộ niềm tin mạnh mẽ của ông ta.
Bức thư của Conant, như sự việc chúng ta tập họp ở đây, đánh dấu một đoạn giáp giới đầy kịch tính giữa dĩ vãng với tương lai. Đây là một buổi lễ trong đó tôi hứa trịnh trọng - với chìa khóa, con dấu và hiến chương - về trách nhiệm của tôi đối với những truyền thống mà tiếng nói vủa ông từ quá khứ gợi lên. Đồng thời tôi khẳng định cùng tất cả các bạn trách nhiệm của mình với tương lai của Harvard. Như dưới thời của Conant, chúng ta đối mặt với những bấp bênh ở một thế giới khiến ta có lý do chắc chắn để lo lắng. Nhưng chúng ta cũng duy trì một đức tin không lay chuyển vào mục đích và tiềm năng của trường này, và vào những gì trường có thể làm được để định hình diện mạo của thế giới khác đi cho đến nửa thế kỷ nữa. Chúng ta hãy nhận lấy những trách nhiệm và khả năng đó; chúng ta hãy chia sẻ chúng, “kết chặt với nhau...làm một:; chúng ta hãy vui vẻ lao vào công việc, vì trọng trách được giao đó là một đặc quyền vô cùng to lớn.








