Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 17/02/2012 20:36 (GMT+7)

Vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ trong phát triển

1. Về phương pháp tiếp cận

Cần nhận thức đúng đắn rằng, các văn kiện thông qua tại Đại hội XI vừa là sự kế tục, vừa có những điểm mới so với các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới. Những điểm mới có thể thuộc về quan điểm mới, có thể là nhận thức mới quan điểm đã được đề cập trước đây. Liên quan tới vấn đề này cần nhận thức khoa học khái niệm “phát triển”được đề cập nhiều lần trong các văn kiện của Đại hội.

Thứ nhất, khái niệm “phát triển” thường được hiểu theo nghĩa rộng và để so sánh với khái niệm “tăng trưởng”. Nói “tăng trưởng” đơn thuần là chỉ số đo về kinh tế (GDP). Ví dụ: phấu đấu đạt chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011-2015: 7-7,5%/năm. Còn nói xã hội phát triển thì “phát triển” phải được hiểu theo nghĩa rộng cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tuổi thọ trung bình cao; dân chủ, giáo dục, y tế tốt, mức sống và chất lượng sống cho toàn dân. Ví dụ: khi nghiên cứu “Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam” là nghiên cứu quy luật phát triển xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đi từ giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc tới xây dựng xã hội dân chủ, tự do, hạnh phúc, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

Chủ đề bài viết bàn về va trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ trong phát triển, thì khái niệm “phát triển” ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng là phát triển xã hội.

Gắn với xu thế hiện nay của thế giới, trong các văn kiện của Đại hội XI có bàn tới khái niệm ”phát triển nhanh, bền vững”. Khái niệm này cần được hiểu vừa theo nghĩa rộng phát triển xã hội, vừa có những mục tiêu cụ thể mà Chương trình nghị sự XXI của Liên hợp quốc đã đề cập tới và Chính phủ Việt Nam đã hưởng ứng Chương trình này. Như vậy, phát triển hay phát triển bền vững là chú trọng tới các vấn đề nguồn lực xã hội, an sinh xã hội, “vốn xã hội”, bảo đảm môi trường, giải quyết việc làm và toàn dụng lao động chứ không phải chỉ là kinh tế.

Thứ hai, khái niệm “phát triển” không phải chỉ được hiểu theo nghĩa rộng như trình bày ở trên bao gồm cả kinh tế và các lĩnh vực văn hóa-xã hội khác, mà nhiều khi khái niệm này đi vào từng lĩnh vực riêng, trong đường hợp đó, cần được hiểu từng khía cạnh cụ thể. Ví dụ, Đại hội XI bàn tới “phát triển kinh tế nhanh, bền vững”; “phát triển công nghiệp và xây dựng”; “phát triển năng lực nghiên cứu”; “phát triển nông-lâm-ngư nghiệp toàn diện”; “phát triển các ngành dịch vụ”; v.v… Khái niệm phát triển ở đây được hiểu là “mở mang rộng ra, làm cho mạnh hơn lên, tốt hơn lên một lĩnh vực cụ thể nào đó từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp…” Nói phát triển văn hóa, phát triển giáo dục, phát triển khoa học và công nghệcũng hiểu theo nghĩa này, nhưng nói văn hóa vì phát triển, giáo dục vì phát triển, khoa học và công nghệ vì phát triểnthì khái niệm “phát triển” ở đây lại phải hiểu theo nghĩa rộng, phát triển xã hội.

Thứ ba, gắn với những vấn đề nêu trên, Nghị quyết Đại hội XI có khái niệm “đổi mới (chuyển đổi) mô hình tăng trưởng”. Khái niệm này vừa nghiêng về kinh tế với ý nghĩa cơ cấu lại nền kinh tế, vừa chứa đựng cả hàm lượng văn hóa, giáo dục khi chủ trương chuyển từ “chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu”. Phát triển theo chiều rộnglà dựa vào gia tăng vốn đầu tư và nguồn nhân lực chất lượng thấp. Còn phát triển theo chiều sâulà trên cơ sở áp dụng các tiến bộ hiện đại về khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại, tức là nhấn mạnh tới vai trò của văn hóa.

Như vậy, phát triển theo chiều rộng có thể được hiểu là đổi mới mô hình phát triển(chứ không đơn thuần là chuyển đổi mô hình tăng trưởng). Trong đổi mới mô hình phát triển có chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tất cả đều hướng tới phát triển nhanh và bền vững và gắn chặt với văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ.

2. Nhận thức có chất lượng khoa học vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ trong phát triển

- Vai trò của văn hóa trong phát triển

Trong các văn kiện Đại hội III (9-1960), IV (12-1976) và V (3-1982), Đảng ta xác định tư tưởng – văn hóa là một trong cuộc cách mạngphải tiến hành đồng thời (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng-văn hóa) của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (6-1991) xác định nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một trong 6 đặc trưng của xã hội chủ nghĩamà nhân dân ta xây dựng. Hội nghị Trung ương năm, khóa VIII (7-1998) xác định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội”. Quan điểm này được quán triệt trong Đại hội IX và nhấn mạnh trong Đại hội X: “Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) trở lại quan điểm của Đại hội X và nhấn mạnh: “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của phát triển”.

Hiểu thế nào về quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, sức mạnh nội sinh của phát triển”?

Nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, có vị trí quan trọng và ngang với kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội là một bước phát triển trong tư duy, nhận thức. Điều này được thể hiện ở chỗ phát triển kinh tế vì văn hóa với ý nghĩa văn hóa là mục tiêu (vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, con người có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện). Đồng thời muốn phát triển kinh tế phải có văn hóa làm động lực, tức là phải xây dựng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống…

Sức mạnh nội sinh của văn hóa được thể hiện văn hóa định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi của mỗi người và toàn xã hội. Các giá trị, chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc trở thành hệ thống giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, pháp luật, khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống, tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Sức mạnh nội sinh là phải trả lời được câu hỏi: “Dân tộc Việt Nam là ai? Dân tộc Việt Nam có cái gì khác dân tộc khác?”. Trả lời được những câu hỏi đó có nghĩa là nhận thức được nguồn lực xã hội (vốn xã hội) to lớn, thấm sâu, tạo sự ổn định, lâu bền trong quá trình phát triển.

Cũng là nền tảng – nền tảng vật chất – nhưng kinh tế không thể tạo nên giá trị ổn định, bền vững với ý nghĩa là sức mạnh nội sinh. Một đất nước nghèo về kinh tế chỉ cần dăm ba chục năm là có thể phục hồi, dần dần phát triển, nhưng nghèo và tụt dốc về văn hóa thì phải hàng trăm năm, thậm chí không bao giờ vực dậy được. Nói theo tinh thần của Lênin và Đảng ta, chúng ta khốn khổ trước hết về sự suy đồi, xuống cấp về văn hóa. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính cái đó. Giảm lòng tin của nhân dân với Đảng cũng là cái đó. Cái đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.

Như vậy, sự phát triển của một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hóa. Nói dấu ấn khai sáng thì không chỉ dừng lại ở nền tảng tinh thần mà là soi đường, lãnh đạo, đi trước. Theo Hồ Chí Minh, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Trả lời câu hỏi của phóng viên báo L’Umanité (Pháp) về nhân tố nào sẽ biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Hồ Chí Minh nói: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vùng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ… Chính vì vậy, chúng tôi đã đào tạo nhanh chóng các cán bộ cho tất cả các ngành hoạt động… để công nghiệp hóa đất nước”.

Hiện nay, Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết ba lĩnh vực: phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững đất nước, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ba lĩnh vực đó đều lấy con người làm hạt nhân với ý nghĩa là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển.

-Vai trò của giáo dục trong phát triển

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII khẳng định “giáo dục và đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật. Giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu”. Đại hội VIII (6-1996) khẳng định “phải phát triển mạnh giáo dục-đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của phát triển nhanh và bền vững”. Nghị quyết Trung ương hai (12-1996) khóa VIII coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với ý nghĩa “giáo dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục-đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Đại hội X nhấn mạnh lại vai trò quốc sách hàng đầu, bổ sung “là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo có sự mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.

Nhìn chung, vị trí, vai trò của giáo dục-đào tạo được đề cập từ Cương lĩnh 1991 đến Cương lĩnh 2011 cơ bản là thống nhất. Cương lĩnh 2011 nói rõ hơn sứ mệnh của giáo dục-đào tạo trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Vấn đề cần nhận thức hiện nay là phải đặt giáo dục-đào tạo trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển rất nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Nói tới cách mạng khoa học-công nghệ và kinh tế tri thức là nói tới giao dục. Chỉ có bằng con đường giáo dục thì mới nâng cao được tri thức, mới có được nền kinh tế tri thức, trong đó khoa học và công nghệ chiếm địa vị quyết định trong sự gia tăng giá trị của sản phẩm.

-Vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển

Trong di sản của mình, C.Mác đã nhận định “khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Quan điểm đó ngày càng được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

Ở Việt Nam , trong những năm 60, Đảng ta coi cách mạng khoa học và kỹ thuật là một cuộc cách mạng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò then chốt. Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Cùng với giáo dục-đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế-xã hội, là điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ”.

Đại hội XI khẳng định lại những quan điểm nêu trên, nhấn mạnh khoa học và công nghệ “giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Điểm mới trong các văn kiện Đại hội XI là làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế tri thức, tạo sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

- Văn hóa là thước đo sự phát triển bền vững

Các văn kiện Đại hội XI có những điểm mới về vị trí, vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nếu hiểu văn hóa là toàn bộ sáng tạo, phát minh của con người và những phương thức sử dụng những công cụ đó thì khoa học, công nghệ và giáo dục đều là những thành tố trong cấu trúc văn hóa, đóng vai trò khai sáng, động lực, mục tiêu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất, đồng thời là thước đo sự phát triển. Các văn hiện Đại hội XI chứng tỏ rằng Đảng ta đang tiếp cạn gần với tư duy của nhân loại ngày nay, nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố văn hóa đặt trên vấn đề kinh tế trong sự phát triển. Không có văn hóa sẽ không có GDP (tăng trưởng), nhưng nếu chỉ có GDP dù 7-10%/năm cũng không thể gọi là phát triển, mà chỉ là một yếu tố của phát triển. Văn hóa mới là thước đo sự phát triển bền vững. Thế giới ngày nay-sau một thời gian dài say sưa với thần linh, cứu cánh GDP, coi đó là thước đo sự phát triển-thì nay đã trở lại với ý kiến của vua nước Phật giáo Butan năm 1972 (Bắc Ấn Độ) về khái niệm Tổng hạnh phúc quốc dân (GROSS NATIONAL HAPPINESS, viết tắt là GNH), nhấn mạnh khía cạnh con người chứ không phải là kinh tế và khái niệm HDI năm 1990 (HUMAN DEVELOPMENT INDEX-Chỉ số phát triển con người), coi GDP chỉ là một yếu tố phát triển nhân loại mà thôi. Chính phủ Trung Quốc từ năm 2006 đến nay chủ trương tăng trưởng hơn 10% mỗi năm, gần đây trên tờ tạp chí chính thức của Bắc Kinh đã đang bài “Giã từ sự tôn thờ GDP”, coi như bỏ đường lối phát triển lấy tăng lợi tức làm cơ sở. Với tinh thần đó, báo Ấn Độ The Hindu đã phê phán những người Ấn Độ đặt vấn đề bao giờ thì nước mình đuổi kịp Trung Quốc từ 8% lên 10% GDP. Bài báo viết: “Đặt vấn đề như vậy là ngu ngốc. Không những vì đánh giá tăng trưởng bao giờ cũng sử dụng những yếu tố độc đoán (chủ quan), mà còn vì mức sống của nhân dân chỉ được ảnh hưởng phần nào và gián tiếp của tổng thể tăng trưởng kinh tế”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng chứa đựng các giá trị văn hóa và những quan điểm về phát triển, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Và sự phát triển bền vững của nước ta xét đến cùng là sự phát triển của văn hóa, sự thăng hoa của văn hóa.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.