Vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ trong phát triển
1. Về phương pháp tiếp cận
Cần nhận thức đúng đắn rằng, các văn kiện thông qua tại Đại hội XI vừa là sự kế tục, vừa có những điểm mới so với các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới. Những điểm mới có thể thuộc về quan điểm mới, có thể là nhận thức mới quan điểm đã được đề cập trước đây. Liên quan tới vấn đề này cần nhận thức khoa học khái niệm “phát triển”được đề cập nhiều lần trong các văn kiện của Đại hội.
Thứ nhất, khái niệm “phát triển” thường được hiểu theo nghĩa rộng và để so sánh với khái niệm “tăng trưởng”. Nói “tăng trưởng” đơn thuần là chỉ số đo về kinh tế (GDP). Ví dụ: phấu đấu đạt chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011-2015: 7-7,5%/năm. Còn nói xã hội phát triển thì “phát triển” phải được hiểu theo nghĩa rộng cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tuổi thọ trung bình cao; dân chủ, giáo dục, y tế tốt, mức sống và chất lượng sống cho toàn dân. Ví dụ: khi nghiên cứu “Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam” là nghiên cứu quy luật phát triển xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đi từ giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc tới xây dựng xã hội dân chủ, tự do, hạnh phúc, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Chủ đề bài viết bàn về va trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ trong phát triển, thì khái niệm “phát triển” ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng là phát triển xã hội.
Gắn với xu thế hiện nay của thế giới, trong các văn kiện của Đại hội XI có bàn tới khái niệm ”phát triển nhanh, bền vững”. Khái niệm này cần được hiểu vừa theo nghĩa rộng phát triển xã hội, vừa có những mục tiêu cụ thể mà Chương trình nghị sự XXI của Liên hợp quốc đã đề cập tới và Chính phủ Việt Nam đã hưởng ứng Chương trình này. Như vậy, phát triển hay phát triển bền vững là chú trọng tới các vấn đề nguồn lực xã hội, an sinh xã hội, “vốn xã hội”, bảo đảm môi trường, giải quyết việc làm và toàn dụng lao động chứ không phải chỉ là kinh tế.
Thứ hai, khái niệm “phát triển” không phải chỉ được hiểu theo nghĩa rộng như trình bày ở trên bao gồm cả kinh tế và các lĩnh vực văn hóa-xã hội khác, mà nhiều khi khái niệm này đi vào từng lĩnh vực riêng, trong đường hợp đó, cần được hiểu từng khía cạnh cụ thể. Ví dụ, Đại hội XI bàn tới “phát triển kinh tế nhanh, bền vững”; “phát triển công nghiệp và xây dựng”; “phát triển năng lực nghiên cứu”; “phát triển nông-lâm-ngư nghiệp toàn diện”; “phát triển các ngành dịch vụ”; v.v… Khái niệm phát triển ở đây được hiểu là “mở mang rộng ra, làm cho mạnh hơn lên, tốt hơn lên một lĩnh vực cụ thể nào đó từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp…” Nói phát triển văn hóa, phát triển giáo dục, phát triển khoa học và công nghệcũng hiểu theo nghĩa này, nhưng nói văn hóa vì phát triển, giáo dục vì phát triển, khoa học và công nghệ vì phát triểnthì khái niệm “phát triển” ở đây lại phải hiểu theo nghĩa rộng, phát triển xã hội.
Thứ ba, gắn với những vấn đề nêu trên, Nghị quyết Đại hội XI có khái niệm “đổi mới (chuyển đổi) mô hình tăng trưởng”. Khái niệm này vừa nghiêng về kinh tế với ý nghĩa cơ cấu lại nền kinh tế, vừa chứa đựng cả hàm lượng văn hóa, giáo dục khi chủ trương chuyển từ “chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu”. Phát triển theo chiều rộnglà dựa vào gia tăng vốn đầu tư và nguồn nhân lực chất lượng thấp. Còn phát triển theo chiều sâulà trên cơ sở áp dụng các tiến bộ hiện đại về khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại, tức là nhấn mạnh tới vai trò của văn hóa.
Như vậy, phát triển theo chiều rộng có thể được hiểu là đổi mới mô hình phát triển(chứ không đơn thuần là chuyển đổi mô hình tăng trưởng). Trong đổi mới mô hình phát triển có chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tất cả đều hướng tới phát triển nhanh và bền vững và gắn chặt với văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ.
2. Nhận thức có chất lượng khoa học vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ trong phát triển
- Vai trò của văn hóa trong phát triển
Trong các văn kiện Đại hội III (9-1960), IV (12-1976) và V (3-1982), Đảng ta xác định tư tưởng – văn hóa là một trong cuộc cách mạngphải tiến hành đồng thời (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng-văn hóa) của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (6-1991) xác định nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một trong 6 đặc trưng của xã hội chủ nghĩamà nhân dân ta xây dựng. Hội nghị Trung ương năm, khóa VIII (7-1998) xác định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội”. Quan điểm này được quán triệt trong Đại hội IX và nhấn mạnh trong Đại hội X: “Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) trở lại quan điểm của Đại hội X và nhấn mạnh: “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của phát triển”.
Hiểu thế nào về quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, sức mạnh nội sinh của phát triển”?
Nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, có vị trí quan trọng và ngang với kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội là một bước phát triển trong tư duy, nhận thức. Điều này được thể hiện ở chỗ phát triển kinh tế vì văn hóa với ý nghĩa văn hóa là mục tiêu (vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, con người có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện). Đồng thời muốn phát triển kinh tế phải có văn hóa làm động lực, tức là phải xây dựng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống…
Sức mạnh nội sinh của văn hóa được thể hiện văn hóa định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi của mỗi người và toàn xã hội. Các giá trị, chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc trở thành hệ thống giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, pháp luật, khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống, tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Sức mạnh nội sinh là phải trả lời được câu hỏi: “Dân tộc Việt Nam là ai? Dân tộc Việt Nam có cái gì khác dân tộc khác?”. Trả lời được những câu hỏi đó có nghĩa là nhận thức được nguồn lực xã hội (vốn xã hội) to lớn, thấm sâu, tạo sự ổn định, lâu bền trong quá trình phát triển.
Cũng là nền tảng – nền tảng vật chất – nhưng kinh tế không thể tạo nên giá trị ổn định, bền vững với ý nghĩa là sức mạnh nội sinh. Một đất nước nghèo về kinh tế chỉ cần dăm ba chục năm là có thể phục hồi, dần dần phát triển, nhưng nghèo và tụt dốc về văn hóa thì phải hàng trăm năm, thậm chí không bao giờ vực dậy được. Nói theo tinh thần của Lênin và Đảng ta, chúng ta khốn khổ trước hết về sự suy đồi, xuống cấp về văn hóa. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính cái đó. Giảm lòng tin của nhân dân với Đảng cũng là cái đó. Cái đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Như vậy, sự phát triển của một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hóa. Nói dấu ấn khai sáng thì không chỉ dừng lại ở nền tảng tinh thần mà là soi đường, lãnh đạo, đi trước. Theo Hồ Chí Minh, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Trả lời câu hỏi của phóng viên báo L’Umanité (Pháp) về nhân tố nào sẽ biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Hồ Chí Minh nói: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vùng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ… Chính vì vậy, chúng tôi đã đào tạo nhanh chóng các cán bộ cho tất cả các ngành hoạt động… để công nghiệp hóa đất nước”.
Hiện nay, Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết ba lĩnh vực: phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững đất nước, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ba lĩnh vực đó đều lấy con người làm hạt nhân với ý nghĩa là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển.
-Vai trò của giáo dục trong phát triển
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII khẳng định “giáo dục và đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật. Giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu”. Đại hội VIII (6-1996) khẳng định “phải phát triển mạnh giáo dục-đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của phát triển nhanh và bền vững”. Nghị quyết Trung ương hai (12-1996) khóa VIII coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với ý nghĩa “giáo dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục-đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Đại hội X nhấn mạnh lại vai trò quốc sách hàng đầu, bổ sung “là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo có sự mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.
Nhìn chung, vị trí, vai trò của giáo dục-đào tạo được đề cập từ Cương lĩnh 1991 đến Cương lĩnh 2011 cơ bản là thống nhất. Cương lĩnh 2011 nói rõ hơn sứ mệnh của giáo dục-đào tạo trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Vấn đề cần nhận thức hiện nay là phải đặt giáo dục-đào tạo trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển rất nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Nói tới cách mạng khoa học-công nghệ và kinh tế tri thức là nói tới giao dục. Chỉ có bằng con đường giáo dục thì mới nâng cao được tri thức, mới có được nền kinh tế tri thức, trong đó khoa học và công nghệ chiếm địa vị quyết định trong sự gia tăng giá trị của sản phẩm.
-Vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển
Trong di sản của mình, C.Mác đã nhận định “khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Quan điểm đó ngày càng được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Ở Việt Nam , trong những năm 60, Đảng ta coi cách mạng khoa học và kỹ thuật là một cuộc cách mạng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò then chốt. Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Cùng với giáo dục-đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế-xã hội, là điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ”.
Đại hội XI khẳng định lại những quan điểm nêu trên, nhấn mạnh khoa học và công nghệ “giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Điểm mới trong các văn kiện Đại hội XI là làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế tri thức, tạo sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
- Văn hóa là thước đo sự phát triển bền vững
Các văn kiện Đại hội XI có những điểm mới về vị trí, vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nếu hiểu văn hóa là toàn bộ sáng tạo, phát minh của con người và những phương thức sử dụng những công cụ đó thì khoa học, công nghệ và giáo dục đều là những thành tố trong cấu trúc văn hóa, đóng vai trò khai sáng, động lực, mục tiêu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất, đồng thời là thước đo sự phát triển. Các văn hiện Đại hội XI chứng tỏ rằng Đảng ta đang tiếp cạn gần với tư duy của nhân loại ngày nay, nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố văn hóa đặt trên vấn đề kinh tế trong sự phát triển. Không có văn hóa sẽ không có GDP (tăng trưởng), nhưng nếu chỉ có GDP dù 7-10%/năm cũng không thể gọi là phát triển, mà chỉ là một yếu tố của phát triển. Văn hóa mới là thước đo sự phát triển bền vững. Thế giới ngày nay-sau một thời gian dài say sưa với thần linh, cứu cánh GDP, coi đó là thước đo sự phát triển-thì nay đã trở lại với ý kiến của vua nước Phật giáo Butan năm 1972 (Bắc Ấn Độ) về khái niệm Tổng hạnh phúc quốc dân (GROSS NATIONAL HAPPINESS, viết tắt là GNH), nhấn mạnh khía cạnh con người chứ không phải là kinh tế và khái niệm HDI năm 1990 (HUMAN DEVELOPMENT INDEX-Chỉ số phát triển con người), coi GDP chỉ là một yếu tố phát triển nhân loại mà thôi. Chính phủ Trung Quốc từ năm 2006 đến nay chủ trương tăng trưởng hơn 10% mỗi năm, gần đây trên tờ tạp chí chính thức của Bắc Kinh đã đang bài “Giã từ sự tôn thờ GDP”, coi như bỏ đường lối phát triển lấy tăng lợi tức làm cơ sở. Với tinh thần đó, báo Ấn Độ The Hindu đã phê phán những người Ấn Độ đặt vấn đề bao giờ thì nước mình đuổi kịp Trung Quốc từ 8% lên 10% GDP. Bài báo viết: “Đặt vấn đề như vậy là ngu ngốc. Không những vì đánh giá tăng trưởng bao giờ cũng sử dụng những yếu tố độc đoán (chủ quan), mà còn vì mức sống của nhân dân chỉ được ảnh hưởng phần nào và gián tiếp của tổng thể tăng trưởng kinh tế”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng chứa đựng các giá trị văn hóa và những quan điểm về phát triển, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Và sự phát triển bền vững của nước ta xét đến cùng là sự phát triển của văn hóa, sự thăng hoa của văn hóa.








