Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 27/06/2007 14:27 (GMT+7)

Vai trò của giáo dục đối với quá trình hiện đại hoá trong thời kỳ Minh Trị ở Nhật Bản

Giáo dục và đào tạo là một công cụ quan trọng đáng kể để xây dựng cơ cấu hạ tầng của nước Nhật mới trong thời kỳ Minh Trị. Tuy nhiên, giáo dục thời kỳ đó chỉ đơn giản là mở rộng truyền thống tôn kính. Thứ nhất, giáo dục tiếp tục tạo dựng con đường dẫn tới cái tinh hoa. Thứ hai, giáo dục được sử dụng một cách thận trọng để hỗ trợ cho hàng loạt chính sách của các nhà lãnh đạo Nhật Bản. Vì vậy, chính sách giáo dục là một minh hoạ cho chân lý là: truyền thống không chỉ đồng thời tồn tại, mà còn có thể thường xuyên trở thành công cụ quan trọng đối với quá trình hiện đại hoá.

*

*          *

Ở Nhật Bản, giáo dục cuối thời kỳ Tokugawa và đầu Minh Trị được đánh dấu bởi một loạt đổi mới, như dịch tài liệu nước ngoài, gửi sinh viên đi học nước ngoài, thuê người làm công là người nước ngoài, v.v.. Tuy nhiên, Nhật Bản đã thừa kế một đức tin từ thế giới quan Nho giáo nguyên thuỷ, khi người ta tin rằng, con người có thể rèn luyện được, đặc biệt là thông qua giáo dục, lòng tin mà người Nhật Bản thấy có sự khác biệt với những gì người ta vẫn gọi là "đặc điểm" ở phương Tây, cụ thể là bản tính mà con người vốn có, về bản chất, không thay đổi một cách căn bản.


Thậm chí, vào cuối của thời kỳ Tokugawa, các vị tướng quân đã thiết lập nên các tổ chức giáo dục cao hơn (ví dụ như Shoheiko); tại các l
ãnh địa là những Hàn lâm viện của họ và tại các nơi quản lý chung là các thái ấp và trường dòng của họ. Hơn thế nữa, ở các viện hàn lâm này và các trường học khác của Nhật Bản đã có các chương trình nghiên cứu không đối lập với Hà Lan và phần nào đó, còn rộng hơn đối với khoa học phương Tây.


Giáo dục thời kỳ Tokugawa nhằm chủ yếu vào tầng lớp Samurai (chỉ chiếm 2% dân số) và chỉ thường nhấn mạnh về lập trường đạo đức bền vững, về tầm quan trọng của thứ bậc hay tôn ti trật tự trong x
ã hội, về sự ưu tiên của cái chung (xã hội) trong mối quan hệ với cái riêng (cá nhân). Song, dẫu sao, giáo dục Samurai cũng đã để lại một dấu ấn đặc trưng trongxã hội Nhật Bản mà sau này, được phân chia thành hai thái cực khác nhau.


Tầng lớp Samurai đ
ã được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng đọc và viết ở mức độ cao nhất, về đặc trưng của nghệ thuật viết chữ đẹp, về sự phát triển của Đạo Khổng, các tiêu chí của Thiền Phật giáo, các quy tắc đạo đức, lòng trung thành, nghệ thuật quản lý nhà nước, về lòng hiếu thảo của đạo làm con và tính nhân đức.


Với cách giáo dục đó, những yếu tố tinh hoa trong nền văn hoá dân tộc Nhật Bản luôn được chú trọng. Điều đó đ
ã giúp cho người Nhật vượt lên trên những thách thức một cách thần kỳ và với những tham vọng của mình, "đội ngũ học trò"-"các cô cậu nhỏ" Nhật Bản đã có được sự thành đạt qua bậc giáo dục này và sử dụng kết quả cá nhân để giành được những thành công khác trongxã hội.


Năm 1883, 40% các trường tiểu học, 73% các trường cấp II có đội ngũ giáo viên xuất thân từ tầng lớp Samurai. Năm 1878, 82% số sinh viên chuẩn bị vào học ở Trường Đại học Hoàng gia Tokyo cũng có nguồn gốc xuất thân từ Samurai; đến năm 1885, 76% số tốt nghiệp Trường Nông nghiệp Sapporo (nay là Trường Đại học Hokkaido) có nguồn gốc xuất thân từ Samurai. Điều đó đ
ã nói lên ưu thế của những người được đào tạo từ tầng lớp Samurai.


Đồng thời, với việc coi tầng lớp Samurai là đối tượng cần được hưởng ưu tiên về chế độ giáo dục, nền giáo dục bình dân trong thời kỳ này cũng được chú trọng. Motoyama Yukihiko đ
ã giải thích điều đó như sau: Đạo Khổng nói đến sự tập trung vào việc "học tập chân chính" và những thay đổi này đã dọn đường cho sự xâm nhập của cách học tập theo lối phương Tây. Do các cuộc khủng hoảng ở nhiều lãnh địa, người ta đã gửi các sinh viên có nguồn gốc xuất thân từ Samurai tới các trung tâm học tập trên khắp đất nước và, cuối cùng là nước ngoài.


Mặc dù được chia thành vài trăm l
ãnh địa, Nhật Bản vẫn chủ trương phát triển một ngôn ngữ chung trong nhân dân. Để khắc phục hàng rào ngôn ngữ đối với khách nước ngoài, ngôn ngữ Nhật Bản đã có sự thay đổi đáng kể. Kể từ khi người Nhật phát triển một cơ sở ngữ âm và một chữ viết mang tính tượng trưng, âm vị và ký hiệu mới đã làm cho nó có thể dịch ra tiếng nước ngoài và đưa các khái niệm từ phương Tây vào. Tỉ lệ người biết viết, biết đọc ở Nhật Bản khi đó là khá cao đối với một quốc gia phát triển. Trong khi đó, những người bình dân tham gia giáo dục cũng đã tăng lên nhờ một hệ thống giáo dục ước chừng 15.000 trường học giáo dân và khoảng 1.500 trường học nội trú do tư nhân tổ chức.


Ngày nay, người ta nhận ra rằng, giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển, trong sự chuyển đổi từ đời sống nông nghiệp cổ truyền sang một
xã hội công nghiệp hiện đại và sau đó, trong những biến đổi xã hội cao hơn, nó tạo ra một loại trung tâm dịch vụ kiểu như trung tâm kỹ thuật mới, mà như Jame S.Coleman đã đánh giá, giáo dục là chìa khoá để mở cửa đến với hiện đại hoá. Mặc dù vậy, bản thân giáo dục lại cho thấy rằng, việc chuyển đổi đó không phải là dễ dàng. ở đây, mâu thuẫn đã xuất hiện tại chính phần cốt lõi của quá trình này, vì những gì được gọi là chiều cạnh phổ biến của sự phát triển thì cũng đồng thời được gọi là đặc tính riêng biệt của quy chiếu văn hoá - lĩnh vực mà người Nhật Bản coi là lý tưởng về sự thay đổi này.


Ở Nhật Bản, giáo dục được coi là yếu tố tiên quyết trong việc phát triển chính trị. Chỉ có hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy mới được coi là lĩnh vực có khả năng cung cấp và đáp ứng các kỹ năng chuyên môn hoá cần thiết trong một
xã hội hiện đại. Rằng, chỉ có hệ thống giáo dục mới đáp ứng được yêu cầu tạo ra các quan chức kiểu mới, các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và đội ngũ chuyên gia. Giáo dục là lĩnh vực không thể thiếu để nâng cao trình độ dân trí. Và, trong một xã hội nghiêm ngặt như thời kỳ Minh Trị của Nhật Bản, thì giáo dục chính là nơi liên kết mọi công dân thành một chỉnh thể, thành một xã hội công dân. Adam Curle đã chỉ rõ, giáo dục thiết lập tiềm năng về một xã hội "bình đẳng" được đánh dấu bởi khả năng có thể phát triển thành mộtxã hội "dân chủ".


Nền giáo dục Nhật Bản thời kỳ này chủ yếu tập trung đào tạo những người đóng vai trò nòng cốt trong việc x
ã hội hoá chính trị. Bởi lẽ, trong quan niệm của người Nhật, một hệ thống giáo dục cũng có thể trở thành công cụ có sức mạnh to lớn trong tiến trình thống nhất quốc gia. Đúng như Herbert Passin đã khẳng định, khi hệ thống quốc gia được thiết lập ở Nhật Bản, thì cái có ảnh hưởng đáng kể tới quá trình thiết lập hệ thống đó là sự phân bố quyền lực nội bộ. Chính vì vậy, trong giáo dục, Nhật Bản luôn quan tâm tới việc kết hợp các giá trị truyền thống với nhu cầu hiện đại hoá và chủ trương xây dựng nền giáo dục gắn với nhiệm vụ chính trị. Trên thực tế, chủ trương đó đã thu được những thành công đáng kể khi giáo dục tập trung vào việc củng cố các trung tâm chính trị và chú trọng đào tạo đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lýhội có năng lực. Về phương diện này, nền giáo dục Nhật Bản thời kỳ Minh Trị có thể được coi là một kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các quốc gia mong muốn đạt được tốc độ cao trong việc phát triển chính trị bằng cách hiện đại hoá từ trên xuống.


Đánh giá chính sách giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị, một học giả có uy tín trong ngành giáo dục Nhật Bản đã rút ra kết luận rằng: "Những người đứng đầu trong Chính quyền Minh Trị đ
ã đúng khi tập trung sự quan tâm của họ vào giáo dục với tư cách một công cụ cho sự hiện đại hoáxã hội". Để xây dựng một xã hội hiện đại, Chính quyền Minh Trị đã dồn nhiều công sức, tập trung mọi nỗ lực cho việc phát triển kỹ thuật và gia tăng kiến thức khoa học với phương châm được ghi trong Hiến chương của họ là: "Kiến thức có thể được tìm kiếm trên khắp thế giới". Mặt khác, họ luôn cố gắng sử dụng các giá trị truyền thống (cố gắng này đã đạt tới đỉnh điểm trong thời kỳ Tokugawa) để củng cố tính đồng nhất dân tộc.


Để có được cái nhìn tổng thể về vai trò của giáo dục đối với quá trình hiện đại hoá ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị, chúng ta hãy xem xét tiến trình thực hiện cải cách giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ này.


1. Thời kỳ thử nghiệm.


Do phải đối mặt với quá trình chuyển đổi chính trị cả trong nước và trên thế giới, ban đầu các nhà lãnh đạo Nhật Bản thời kỳ Minh Trị đã không đưa ra được một mô hình cố định cho hệ thống giáo dục. “Họ không có cách lựa chọn nào khác ngoài việc phải chấp nhận cách thử nghiệm mang tính chiết trung với mục đích là đạt được sự liên kết mới, tối ưu với giáo dục”. Chính chủ nghĩa thực dụng kiểu này đã khiến cho phần lớn các nhà lãnh đạo đi từ chỗ ủng hộ đến phản đối những người hiện đại hoá.


Chẳng hạn, trong thời kỳ Minh Trị, như Fukuzawa Yukichi một nhà cải cách lớn của Nhật Bản đã cho rằng, những người trí thức lớn đã hình dung ra hai dạn
g xã hội. Dạng thứ nhất được đặc trưng bởi các mối quan hệ không thay đổi, đóng kín mà theo đó, sự hiểu biết do tầng lớp thống trị độc quyền chiếm giữ. Dạng thứ hai là mô hình xã hội được đặc trưng bởi các mối quan hệ không cố định, mở rộng đối với sự giao tiếp giữa người với người. Trong quá trình chuyển đổi từ dạng xã hội này sang dạng xã hội khác, theo ông, cái đóng vai trò quyết định là chủ nghĩa thực dụng. Với quan điểm thực dụng chủ nghĩa, chủ nghĩa Darwin xã hộiđã có ảnh hưởng đối với những tư tưởng của các nhà cải cách giáo dục thời đầu Minh Trị, như Ito Hirobumi và Yagagata Aritomo, và Mori Arinori - người sau này là Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên trong hệ thống nội các này.

Ở thời kỳ này, phương pháp chiết trungđã đánh dấu bước tiến đầu tiên trong cải cách giáo dục đó chính là việc ban hành bộ Luật mới về giáo dục (1872). Nội dung cơ bản của bộ luật này được khái quát thành câu khẩu hiệu: “Văn minh và khai hoá”. Mặc dù, khi đó, người Pháp là những người nước ngoài có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất ở Nhật Bản, nhưng hệ thống giáo dục nàyđã biết kế thừa, tiếp thu thành quả giáo dục từ rất nhiều nước trên thế giới và biết chắt lọc các kinh nghiệm của chính mình. Chẳng hạn, Oki Takato - Vụ trưởng Vụ Giáo dục ở thời kỳ này là ngườiđ ã chịu ảnh hưởng rất lớn từ phương pháp giáo dục của phương Tây và với ảnh hưởng đó, ôngđ ã có nhiều đóng góp trong việc đưa phương pháp giáo dục của phương Tây vào nền giáo dục Nhật Bản. Trong khi đó thì Tanaka Fujimoro - người đóng vai trò trung tâm trong công cuộc cải cách giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ nàyđ ã được giao nhiệm vụ nghiên cứu hệ thống giáo dục nước ngoài (một phần trách nhiệm được giao của Iwakura vào năm 1871). Tanakađã dùng phần lớn thời gian của mình để lĩnh hội hệ thống giáo dục của Mỹ và Đức. Song, đáng tiếc là báo cáo của ông ta về các hệ thống giáo dục nàyđã không được hoàn thành trước khi Nhật Bản ban hành bộ Luật giáo dục.


Bộ Luật giáo dục này
đã phác thảo ra một hệ thống giáo dục hiện đại và toàn diện, theo nguyên tắc phổ thông và bắt buộc. Lời mở đầu của bộ Luật này có ghi: “Học là chìa khoá của sự thành công trong cuộc sống và không ai lại không cần đến giáo dục”. Theo hệ thống giáo dục tập trung của Pháp, các nhà giáo dục Nhật Bản đ ã phân chia hệ thống giáo dục thành 8 khu vực đại học; 8 khu vực này lại được chia thành 32 khu vực trường trung học và tương tự, 32 khu vực này lại được chia nhỏ hơn thành 210 khu vực trường tiểu học. Chương trình giảng dạy ở trường tiểu học đối lập với mô hình tập trung của Pháp và được áp dụng theo mô hình giảng dạy của Mỹ.


Tuy nhiên, kế hoạch tiến hành theo Luật này quá cực đoan. Ngoài các khoản là 1.940.000 yên dùng mở rộng các trường công lập năm 1873, thì Chính phủ chỉ hỗ trợ 12%, phần còn lại phải do nhân dân đóng góp. Xét về tính bền vững của nền văn hoá Nhật Bản, hệ thống giáo dục du nhập từ ngoài vào là khó có thể chấp nhận đối với người Nhật. Do vậy, số lượng học sinh đến trường không nhiều như người ta dự đoán: chỉ có 28% trẻ em đến trường vào năm 1873. Mặc dù vậy, qua hai thập niên tìm tòi và có cả sai lầm đó, cuối cùng Nhật Bản cũng
đã đưa ra thử nghiệm được nhiều mô hình giáo dục khác nhau.


2. Thời kỳ áp dụng


Vào những năm sau khi ban bố Luật giáo dục, các nhà l
ãnh đạo Nhật Bản thời kỳ Minh Trị đ ã thi hành chính sách du nhập các quan niệm giáo dục từ nước ngoài một cách có chọn lọc. Năm 1873, Bộ Giáo dục Nhật Bảnđ ã dành khoảng 14% tổng ngân sách cho việc thuê giáo viên ngoại quốc đến tham gia giảng dạy ở các trường cao đẳng (khoảng 80% số giảng viên này được sử dụng trong giai đoạn 1868-1890). Việc áp dụng các quan điểm của nước ngoài, việc sử dụng chương trình giáo dục của nước ngoài một cách có chọn lọcđã mang lại ý nghĩa tích cực. Kết quả đem lại đúng như nhận xét của Ogata Hiroyasu, trong khoa học nhân loại thì người Anh đứng đầu, theo sau là Đức, Mỹ và Pháp; về các môn khoa học xã hội thì Đức và Mỹ là ngang nhau; về khoa học tự nhiên thì người Đức xếp hàng đầu, theo sau là Anh và Mỹ.


Vào thời kỳ này, Pháp lệnh giáo dục (1879) được coi là dấu hiệu thử nghiệm quan trọng nhất. Mặc dù đề cao chủ nghĩa dân tộc, nhưng định hướng của pháp lệnh này đ ã cho thấy sự chuyển đổi từ kiểu giáo dục tập trung của Pháp sang hệ thống phi tập trung của Mỹ. Theo pháp lệnh này thì tính độc lập, tính đa dạng và quyền tự do của người Nhật
đ ã được chú ý nhiều. Không chỉ thế, pháp lệnh này dường nhưđ ã phản ánh được sự phát triển của phong trào vì quyền con người (sau năm 1874). Tuy nhiên, trên thực tế sự phản đối của dân chúngđã lan rộng trên phạm vi toàn quốc, thoạt đầu là chống Chính phủ và từ đó, họ phản đối chính sách cải cách giáo dục này của Chính phủ Nhật Bản.


Những người soạn thảo pháp lệnh này là Tanaka Fujimoro và Đavi Murray và trước khi ban hành,
đ ã được Ito Hirobumi và các nhà lãnh đạo khác của Chính phủ Nhật Bản khi đó phê chuẩn. Tuy nhiên, pháp lệnh này đ ã không được phổ biến rộng rãi bởi những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị ở Mỹ khi đó và một phần bởi kết quả thực sự của quá trình phi tập trung hoá là một thảm hoạ. Số lượng học sinh đến trường đ ã giảm từ 41,26% (1878) xuống 41,16% (1879) và thậm trí còn xuống tới mức 41,06% (năm 1880). Trước tình hình đó, Chính phủ Nhật Bảnđã buộc phải xoá bỏ hệ thống giáo dục theo kiểu Mỹ, sửa đổi một phần pháp lệnh giáo dục này vào năm 1880 và loại bỏ hẳn nó vào năm 1885 để đưa ra một pháp lệnh mới.


3. Thời kỳ củng cố.


Mặc dù
đã trải qua một số thử nghiệm, song vai trò chủ đạo của Nhà nước trong giáo dục ở Nhật Bản khi đó vẫn còn đang ở quá trình cải cách. Bộ Giáo dục Nhật Bản được thành lập vào năm 1871 và Eto Shimpei trở thành vị Bộ trưởng đầu tiên có quyền kiểm soát tất cả các trường phổ thông. Nhưng vào năm 1874, người kế nhiệm ông là Kido Takayoshi lại không có được quyền đó. Bản thân ông cũng cho rằng, giáo dục phải vì lợi ích của nhà nước và của nhân dân, chỉ khi nào dân giàu và mạnh lên nhờ được trau dồi kiến thức dưới sự bảo hộ của chính phủ thì nhà nước mới có được vị thế của nó trên trường quốc tế. Với quan điểm đó, ông đề cao cả trách nhiệm của dân lẫn sự bảo hộ của nhà nước trong giáo dục. Mặc dù vậy, trên thực tế, quá trình phi tập trung hoá tuyđ ã thu được những thành công nhất định, nhưng Pháp lệnh giáo dục mới vẫn còn quy định quyền kiểm soát của Bộ trưởng Giáo dục đối với tất cả các loại trường lớp trong cả nước.


Cùng với sự ra đời của Pháp lệnh giáo dục mới, các nguyên tắc lớn của giáo dục cũng
đ ã được ban bố vào năm 1879. Nội dung của các nguyên tắc này dường như là để truyền đạt quan điểm của các nhà cầm quyền và toà án. Còn trên thực tế thì pháp lệnh này lại phản ánh quan điểm bảo thủ của Motoda Nagazane, ngườiđ ã tìm cách tăng cường vị thế của nhà cầm quyền trong lĩnh vực chính trị bằng cách cố gắng dựa vào các nguyên tắc mang ý nghĩa quyết định của một đế chế. Trong một cuộc tranh luận giữa Motoda và Ito, Motoda đ ã hoàn toàn chiến thắng. Với chiến thắng này, ông kiên quyết phản đối việc tách biệt giữa chính phủ và giáo dục. Theo quan điểm của ông, giáo dục cần chú trọng đến truyền thống và đạo đức hơn là khoa học và các vấn đề về thế giới. Với toàn bộ quyền lực của mình, ông chủ trương phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc và đề cao quyền con người.


Mặc dù không ủng hộ việc xoá bỏ tất cả mọi phong cách tư duy theo lối phương Tây, song Motoda lại chủ trương tập trung vào việc giáo dục cho người dân Nhật Bản tính chính thống dân tộc. Bởi, theo ông, việc hội nhập với văn hoá phương Tây chỉ tạo ra một môi trường mà theo đó, nhiều người Nhật Bản
đã quên mất các tập tục bản địa và kết quả trực tiếp là đánh mất các truyền thống dân tộc của người Nhật. Ông cho rằng, cải cách giáo dục cần phải "tập trung vào học tập luân lý theo Khổng giáo dựa trên cơ sở những lời dạy của tổ tiên ...”. Song, chủ trương đó của ông đã vấp phải sự chống đối của phong trào đòi Nhật hoá các ảnh hưởng văn hoá của nước ngoài.


Trong bối cảnh đó, Chính phủ Nhật Bản
đã trao quyền sửa đổi Pháp lệnh giáo dục (1880) cho Bộ trưởng Giáo dục khi đó là Kono Togama. Konođã chuyển chương trình học luân lý từ cuối lên đầu chương trình giáo dục. Song, trên thực tế, số lượng con trai và con gái đến trường (1883-1887) lại giảm tới mức báo động - giảm 6%(10). Chính vì vậy mà sự sửa đổi tiếp theo (1885) của Pháp lệnh giáo dụcđã được thực hiện dưới thời nội các đầu tiên của Ito. Người được trao quyền sửa đổi này là Mori Arinori - Bộ trưởng Giáo dục. Mori Arinori chủ trương phát huy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc đồng thời với nhu cầu khai sáng. Chính sách giáo dục này của ôngđã được đa số người dân Nhật Bản chấp nhận do nhu cầu duy trì chính thể quốc gia với mục đích làm giàu và tăng cường tiềm lực quốc gia. Vì vậy, Moriđã phân biệt rõ ràng giữa nghiên cứu và giáo dục. Mục đích của ông là đi sâu vào tìm hiểu chân giá trị của sự việc và đào tạo đội ngũ những người am hiểu công việc cho các ngành nghề cụ thể.


Thực hiện triệt để mục đích này, Mori
đã đưa vào chương trình giảng dạy trong các trường học của Nhật Bản một phương châm giáo dục mới. Phương châm đó là “Giáo dục nhằm mục đích đào tạo con người và do vậy, mọi người đều phải coi việc học môn đạo đức học thực hành như một môn học bắt buộc và đều phải có nghĩa vụ phấn đấu trở thành người có chất lượng để trên cơ sở đó, hưởng thụ phúc lợi xã hội. Trong các trường đại học khoa học và công nghệ, các môn học đáp ứng đòi hỏi của nhà nước đều được đưa vào chương trình giảng dạy. Năm 1882, khi còn đang ở châu Âu, Ito Hirobumi đã nghiên cứu và soạn thảo một Hiến pháp mới cho Nhật Bản mang nhiều ảnh hưởng của các lý thuyết về nhà nước của người Phổ, các khái niệm về chế độ quân chủ lập hiến và các tư tưởng về giáo dục. Trên đường trở về nước, ông đã mời Mori Arimori - người mà sau này là đại sứ tại London - về Pari để làm cố vấn. Kế hoạch giáo dục khi đó của Mori Arinori có lẽ bắt nguồn từ đây. Ông kêu gọi sửa đổi quản lý giáo dục từ trung ương đến địa phương và đề nghị chuyển hướng từ tư nhân sang nhà nước, từ việc sử dụng phương pháp giáo dục của phương Tây sang sử dụng phương pháp giáo dục của Nhật Bản. Kế hoạch cải cách giáo dục của ông được tiến hành với lộ trình 3-4 năm với quy định bắt buộc về giáo dục đạo đức, chú trọng truyền bá tri thức khoa học tại các trường đại học quốc gia nhằm đào tạo những tài năng có khả năng nắm bắt được công nghệ hiện đại và tham gia vào việc điều hành và quản lý đất nước.


Việc phê phán các hệ thống giáo dục cổ hủ
đã được tiến hành trong giai đoạn từ 1879 - 1906. Nhờ đó, các trường học Nhật Bảnđã thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu trong việc đào tạo nhân tài cho công cuộc hiện đại hoá ở Nhật Bản. Cái đích cơ bản trên chặng đường thử nghiệm, thích nghi và củng cố nền giáo dục Nhật Bản đã đạt được vào năm 1890. Đóng góp nổi bật của công cuộc cải cách giáo dục này ở Nhật Bản là góp phần đẩy mạnh hiện đại hoá, nhưng với con đường khác hoàn toàn so với những cách được tiến hành bởi người Anh, người Pháp hay người Mỹ. Nhờ công cuộc cải cách đó, Nhật Bản đã chuyển sang một hệ thống giáo dục mới dựa trên cơ sở thống nhất giữa Chính phủ và cơ quan giáo dục, đề cao truyền thống dân tộc theo tinh thần Khổng giáo nguyên thuỷ và phục vụ đắc lực cho lợi ích đất nước đến cuối Thế chiến thứ hai.

Nguồn: T ạp chí nghiên c ứu Nh ật B ản

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.