Vài nét về Đông y Việt Nam
Vào thời Trần (1225-1399) y học phát triển khá mạnh, Thái y ty đã đổi thành Thái y viện, triều đình đã có chủ trương chữa bệnh cấp thuốc cho dân, cổ động người dân trồng cây thuốc, đã có một số danh y xuất hiện.
- Phạm Công Bản là Thái y lệnh dưới triều Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông, đã tự bỏ tiền ra xây dựng nhà chữa bệnh và cấp thuốc cho dân.
- Trâu Canh đã từng cứu sống Trần Dụ Tông lúc nhỏ bị chết đuối, và một lần chữa bệnh liệt dương cho Dụ Tông khi ông làm vua.
- Nguyễn Bá Tĩnh, một nhà sư có pháp danh là Tuệ Tĩnh ( chưa xác định sống vào thời nào), ông có để lại hai tác phẩm y học rất lớn đó là: Namdược thần hiệuvà Hồng nghĩa giác tư y thư. Nam dược thần hiệugồm 11 quyển ghi lại tính chất của 580 vị thuốc và 3873 bài thuốc để chữa 182 trường hợp bệnh chứng trong 10 khoa lâm sàng, Hồng nghĩa giác tư y thưngoài phần y lý y luận có ghi lại tính chất và công dụng của 630 vị thuốc, 13 phương gia giảm, và một thiên Bổ âm đơn.
Tuệ Tĩnh là người đầu tiên nêu lên khẩu hiệu “ Nam dược trị Nam nhân” và có chủ trương dưỡng sinh để giữ gìn thân thể “ Bế tinh dưỡng khí tôn thần, thanh tâm quả dục thủ chân luyện hình”.
- Chu Văn An (1292-1370) đã để lại một số tài liệu y học quan trọng, sau đó cháu ông là Chu Doãn Văn và Chu Xuân Lương đã biên soạn lại thành cuốn Y học giảo yếu tập chú di biênin năm 1466 và tái bản có bổ sung năm 1856.
Thời nhà Hồ (1400-1406) tuy ngắn ngủi nhưng cũng có xuất hiện một danh y tên Nguyễn Đại Năng, ông phụ trách bộ Quảng tế chuyên tổ chức các cơ sở chữa bệnh cho dân. Ông có để lại quyển Châm cứu tiệp hiệu diễn ca, đây là tác phẩm châm cứu đầu tiên của nước ta.
Thời thuộc Minh (1407-1427), thời kỳ này y học vẫn tiếp tục phát triển, nhưng đa số các tác phẩm y học của nước ta đều bị người nhà Minh tịch thu mang về nước (Trung Quốc), trong số đó có: Cúc đường di cảocủa Trần Nguyên Đào, Dược thảo tân biêncủa Nguyễn Chí Tân…
Thời Hậu Lê đến hết thời Nguyễn (1428-1945); thời Hậu Lê (1428-1788) có nhiều đóng góp tích cực đối với Đông y nước ta:
- Bộ luật Hồng Đức có đặt qui chế về việc hành y, quy chế về pháp y và quy chế về vệ sinh xã hội.
- Chống tảo hôn, quy định tuổi thành hôn: 18 cho nam và 16 cho nữ.
- Triều đình có Thái y viện, quân đội có Lương y sở, các tỉnh có Tế sinh đường chuyên lo cứu chữa bệnh và phòng chống dịch.
- Mở các lớp giảng dạy y học ở Thái y viện.
- Mở các khoa thi để tuyển lựa Lương y.
- Hiệu đính tái bản các tác phẩm y học cũ và khuyến khích các sáng tác mới.
Thời này có nhiều danh y rất nổi tiếng như:
- Nguyễn Trực (1416-1473) tác giả sách Bảo anh lương phương.
- Lê Hữu Trác (1720-1791) có biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, ông đã sáng tác một bộ y thư vĩ đại, có thể nói là lớn vào bậc nhất ở nước ta, đó là bộ Hải Thượng y tôn tâm lĩnhgồm 28 tập chia làm 66 quyển, bao quát mọi vấn đề về Đông y học.
- Hoàng Đôn Hoà biên soạn sách Nhãn khoa yếu lược năm 1635.
- Trần Ngô Thiên soạn các tập Y phương ca quát, Tiểu Nhi khoa, Đậu chẩn, Mạch học.
Thời Tây Sơn (1788-1802), mặc dù thời gian tồn tại rất ngắn nhưng triều Tây Sơn cũng đã tổ chức Nam dược cục chuyên nghiên cứu và chữa bệnh cho quân đội và nhân dân do hai danh y Nguyễn Hoành và Nguyễn Quang Tuân phụ trách.
- Nguyễn Gia Phan (1748-1817) được cử làm chỉ huy chống dịch, ông đã biên soạn hai tác phẩm: Liệu dịch phương pháp toàn tậpvà Hộ phi phương pháp tổng lục.
- Nguyễn Quang Tuân đã viết hai tác phẩm y học bằng chữ nôm: La Khê phương dượcvà Kim ngọc quyển.
Thời nhà Nguyễn (1802-1945):
- Tại triều đình có Thái y viện, ở các tỉnh có Lương y ty.
- Năm 1850 có mở trường thuốc ở Huế.
- Đặt ra luật lệ hành y.
- Tổ chức tái bản bộ Hải Thượng y tôn tâm lĩnh.
- Các danh y có: Nguyễn Quang Lương tác giả sách Namdược tập nghiệm quốc âm, Lê Đức Huệ tác giả sách Namthiên đức bảo toàn thư…
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà ra đời, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam. Đặc biệt trong thời kỳ này y học cổ truyền đã được đánh giá đúng mức và vị trí của nó cũng được nâng cao. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bức thư gửi cho Hội nghị ngành Y tế ngày 27/2/1955có đoạn viết : “Trong những năm bị nô lệ thì y học của ta cũng như các ngành khác bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, người thầy thuốc cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ để xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân ta. Y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học dân tộc đại chúng, ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc đông và thuốc tây”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960, lần thứ IV năm 1976 và lần thứ V năm 1982 đều đã vạch ra việc kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền để xây dựng nền y học Việt Nam.
Năm 1980, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Namđã xác định kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền là nội dung cơ bản để xây dựng nền y học Việt Nam .
Ngày 10 tháng 12 năm 1957, Viện nghiên cứu Đông y TW được thành lập và từ đó đến nay đã có nhiều tổ chức y dược học cổ truyền ra đời như: Hội Y học Cổ truyền Dân tộc Việt Nam, Viện y học dân tộc Hà Nội, Viện y học dân tộc TP Hồ Chí Minh, các trung tâm nghiên cứu và đào tạo y học cổ truyền, các khoa y học cổ truyền của các trường Đại học và Trung học y tế… Ngoài ra còn có các đoàn thể y học tự phát của quần chúng như: Hội Đông y miền Nam , Hội châm cứu, Hội dưỡng sinh… Mỗi tổ chức y học cổ truyền ra đời, như những chiếc cầu bắc liền giữa y học cổ truyền với y học hiện đại, là những phương tiện vững chắc để xây dựng nền y học Việt Nam .
Nguồn: Xưa và Nay, số 102, 10/2001, tr 11, 12