Vài hạt nhỏ mặn cho một tương lai tươi sáng
Một số học sinh học kém và không đủ khả năng tiếp thu bài học, đó là những đứa trẻ không may mắn bị mắc chứng đần độn do thiếu iod. Chúng không phải lười học nhưng vì não bị thương tổn do thiếu iod làm chúng không thể suy nghĩ và nhớ bài học.
Một khảo sát gần đây tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy những trẻ bị thiếu iod thường học kém và có tỷ lệ bị lưu ban cao hơn nhóm trẻ bình thường.
Bố mẹ nào mà chẳng muốn con cái thông minh, thế nhưng ít ai biết rằng việc bổ sung cung cấp iod cho cả cộng đồng thông qua muối iod đã làm chỉ số thông minh IQ của cả cộng đồng tăng lên thêm 20 điểm.
Chất iod có chức năng bảo vệ các tế bào não. Khi thiếu iod, các tế bào não sẽ bị “vi chấn thương”. Những chấn thương này làm cho tế bào não không hoạt động tốt được và do vậy đứa trẻ bị chứng đần độn. Vi chấn thương này không gây tử vong như chấn thương sọ não do tai nạn giao thông, nhưng về hậu quả thì chúng giống hệt nhau, đó là làm trì trệ hoạt động bình thường của não bộ.
Chứng đần độn do thiếu iod có thể xuất hiện sớm ngay khi trẻ còn trong bụng mẹ do bà mẹ mang thai ăn uống thiếu iod. Thiếu iod không chỉ gây bệnh bướu cổ và đần độn mà còn gây sẩy thai ở phụ nữ mang thai và chậm phát triển ở trẻ em.
Trước khi có chương trình muối iod, tỷ lệ thiếu iod ở Việt Nam là rất cao, đến 90% dân số Việt Nam bị thiếu iod ở các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Đây cũng là một thực tế rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
Iod là một vi chất dinh dưỡng, tức là một chất dinh dưỡng mà cơ thể cần với lượng rất nhỏ nhưng không tự tổng hợp được mà phải nhập từ ngoài vào qua thức ăn. Người ta tính rằng cả một đời người chỉ sử dụng khoảng 1 muỗng cà phê chất iod nhưng nếu thiếu nó, hậu quả rất nghiêm trọng. Iod có nhiều trong thức ăn như rau quả và các loại hải sản. Iod có nhiều trong đất trồng trọt nhưng đất ngày càng bạc màu làm iod trôi mất ra biển và vì thế mà thực phẩm ngày càng chứa ít hàm lượng iod. Do đó con người ngày nay đễ bị thiếu iod hơn con người thời xưa, người vùng núi dễ bị thiếu iod hơn người vùng biển.
Người Thuỵ Sĩ đã biết đưa thêm iod vào muối ăn từ những năm 1930 để giải quyết tình trạng thiếu iod ở nước ngày. Thành công này được triển khai sau đó tại rất nhiều nước trên thế giới và đến nay nó đã trở thành chương trình có tính bắt buộc. Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài chương trình muối iod này.
Bản thân muối không liên quan gì đến bệnh thiếu iod nhưng muối đã trở thành hữu hiệu để “chuyên chở” iod đến với mọi người. Không ai ăn quá nhiều muối một ngày để ngày hôm sau không ăn muối nữa, tất cả mọi người đều ăn muối đều đặn, mỗi ngày một ít và cũng nhờ thế mà iod được chuyển vào cơ thể chúng ta đều đặn mỗi ngày. Đừng thấy iod quá quý như thế mà ăn nhiều muối để có được nhiều iod, bởi vì ăn mặn quá sẽ không tốt cho sức khoẻ của tim mạch. Cứ ăn muối iod như bình thường vì các nhà khoa học đã tính toán cẩn thận để lượng iod bổ sung vào muối không quá nhiều để gây tác dụng phụ và cũng không quá ít để không có hiệu quả.
Ngoài ra cần ăn thêm các thực phẩm giàu iod như cá biển, nước mắm, rong biển.
Iod là chất rất dễ bị bay hơi (người ta gọi là sự thăng hoa của iod) nên cần bảo quản muối iod trong chai lọ có nắp đậy kín, để nơi khô mát tránh nắng nóng. Khi nấu thì nên cho muối vào khi đã nhắc nồi xuống để tránh bị nhiệt độ cao làm mất đi.
Nguồn: Khoa học phổ thông, 4/2006







