Tự chữa bệnh theo các thông tin nghiên cứu nguy hiểm khó lường
Vừa rồi ông bị tai biến mạch máu não phải vào bệnh viện cấp cứu. Hỏi kỹ, thầy thuốc mới biết một trong những lí do dẫn đến tai biến này là do ông bỏ dùng aspirin. Tương tự, bà Phạm Thị H. (Tp HCM), đang dùng thuốc kiểm soát hen salmetarol hít, được con xem báo cho hay thuốc này làm tăng tỷ lệ tử vong, sợ không dùng nữa. Sau khi ngưng dùng, bà bị cơn hen nặng, phải cấp cứu, khi ra viện thầy thuốc lại kê chính thuốc ấy cho bà dùng tiếp.
Tự chữa bệnh theo các thông tin nghiên cứu đăng tải trên các báo (chuyên môn, không chuyên môn) là thói quen đáng được cảnh báo.
Để phân loại đánh giá thông tin, giới nghiên cứu chia theo giá trị chứng cứ. Để dễ hiểu, tạm chia theo một số nhóm:
Nhóm 1: Những nhận xét kết quả nghiên cứu trong ống nghiệm, súc vật:
Thông tin này chỉ mang tính gợi mở hướng đi hay vấn đề mới. Ở người, thuốc hấp thu, chuyển hóa, gây hiệu lực, tác dụng phụ, không giống như ở ống nghiệm, súc vật, nếu đem dùng cho người có khi không kết quả, thậm chí gây hại.
Vào những năm 80, các nhà khoa học thấy nattokinase (trong Đỗ tương lên men) làm tan cục máu đông trong ống nghiệm. Tuy nhiên, các thuốc chống đông (như streptokinase) chỉ dùng dạng tiêm. Nattokinase không bền vững khi uống (là enzym, dễ bị phân hủy), cũng chưa có ai chuyển thành dạng tiêm thử trên người. Dùng nó để ngăn ngừa đông máu thay aspirin là chưa có cơ sở khoa học.
Năm 2006, có nhà khoa học đã tiêm chất độc bufadienolid (lấy từ cóc) vào khối ung thư trên súc vật, thấy làm giảm đau mà không gây nghiện như morphin, gợi ý nghiên cứu dùng làm thuốc giảm đau. Tuy nhiên, muốn thế, phải chiết được chất tinh khiết và đưa trực tiếp vào khối u, đó là điều không dễ dàng. Nếu hiểu đơn giản cóc chứa chất chữa được ung thư, rồi dùng rượu cóc hay ăn cóc là nguy hiểm. Vừa qua, có không ít người chết vì nghe theo lời đồn đại không đúng này.
Nhóm 2: Những nhận xét, kết quả nghiên cứu trên người trong phạm vi hẹp (vài chục người, vài trăm người) không có đối chứng, không có ý nghĩa thống kê.
Loại thông tin này chỉ có thể đưa ra một lời khuyên, không thể đưa ra quyết định dùng hay cấm dùng thuốc. Nhà chuyên môn có thể thử trong phạm vi hạn chế nhằm làm sáng tỏ, tiếp tục nghiên cứu thêm, chứ không thể áp dụng điều trị khi chưa được phép của cơ quan thẩm quyền (cụ thể là Bộ Y tế).
Gần đây, các nghiên cứu ở Anh, Mỹ cho biết những người có bệnh tim mạch, bệnh rối loạn chuyển hóa thường có nồng độ vitamin D máu thấp. Chưa thể dựa vào kết quả này để có thể dùng vitamin D ngăn ngừa bệnh trên vì 3 lý do: Thứ nhất: chưa có nghiên cứu theo chiều ngược lại là bổ sung vitamin D thì ngăn ngừa được bệnh. Thứ hai: nước ta quanh năm đủ ánh nắng ít khi bị thiếu vitamin D, bệnh tim mạch chưa hẳn là do thiếu vitamin D. Thứ 3: vitamin D có độc tính với những người có nguy cơ hay bệnh tim mạch thì dùng bao nhiêu là vừa?
Trước đây, một nghiên cứu tại Mỹ cho biết dùng salmeterol hít cho người da đen thấy có tai biến nhiều hơn cho người da trắng. Đây là một nghiên cứu nhỏ, nhìn toàn cục, thuốc này vẫn là một thuốc kiểm soát hen hữu hiệu, an toàn. Nghe theo thông tin này mà bỏ không dùng thuốc sẽ làm cơn hen tái trở lại, nặng hơn.
Nhóm 3: Các kết quả nghiên cứu trên số đông người bệnh (3.000 – 10.000 người) phạm vi rộng (nhiều trung tâm) có đối chứng, có ý nghĩa thống kê.
![]() |
Nếu kết quả xấu, buộc phải ghi cảnh báo (như ghi tác dụng tiêu cơ vân lên nhãn hay tờ giới thiệu các thuốc statin) hay buộc đình chỉ lưu hành (cấm rofecoxib do gây tai biến tim mạch).
Bác sĩ, dược sĩ có thể dùng thông tin có bằng chứng cao (nhóm 3) để điều trị hay hướng dẫn dùng thuốc (sau khi thuốc được phép lưu hành). Người bệnh không thể dùng thông tin này để tự chữa bệnh. Trên các tờ hướng dẫn dùng thuốc thường ghi rõ “thông tin này dành cho thầy thuốc” là vì lí do này.
Như vậy, bạn đọc nên lấy thông tin từ các tạp chí có uy tín. Phải đọc, phân tích kỹ, vì ngay cả những tạp chí này đôi khi cũng có những vấn đề đang tranh luận, cần xem xét. Hiện có tình trạng người này chép lại thông tin do người khác sưu tầm và dịch nên có chuyện “tam sao thất bản”.
Đối với cơ quan báo chí, cần:
- Trung thực với thông tin: Có tác giả đưa một tiêu đề hấp dẫn bạn đọc: “Phát hiện tác dụng chữa bệnh tim mạch của vitamin D” hay “tác dụng phòng ung thư quy giá của quả Na”, trong khi chưa có nghiên cứu dịch tễ học trên diện rộng, chưa có đối chứng. Như vậy là đã vô tình cường điệu kết quả nghiên cứu.
- Không cung cấp thông tin thiếu chính xác.
- Đăng đúng chỗ: Đối với thông tin thuộc nhóm 1 và 2, nếu đăng trong mục “khám phá khoa học”, “chân trời khoa học”, “thông tin khoa học” thì người đọc hiểu đó chỉ là nghiên cứu nhưng nếu viết lẫn vào trong bài đăng ở mục “hướng dẫn dùng thuốc”, “chăm sóc sức khỏe” thì dễ làm cho người đọc lầm tưởng là có thể áp dụng chữa bệnh cho người.