Truyền thuyết về cột đồng Mã Viện ở núi Lam Thành là hoang đường
Theo sử sách Trung Hoa trước đây thì có 7 cột đồng đã được 5 người dựng lên: Mã Viện và Mã Tổng mỗi người dựng 2 cột. Hà Lý Quang, Trương Chu, Mã Hy Phạm mỗi người dựng một cột (có sách chỉ ghi tổng số cột đồng đã dựng là một, hai hoặc năm cột).
Về địa điểm dựng đặt cột đồng thì các sách thường ít thống nhất với nhau:
Lương sử, Tuỳ sử, Đường sửđều chép cột đồng dựng ở nơi xa xôi nhất, đó là Lâm Ấp.
Nhất thống chí đờiMinh lại chép cột đồng dựng ở Cổ Lâu (có sách ghi là Cổ Xâm) thuộc Châu Khâm.
Nhất thống chí đờiThanh chép: “Cột đồng một cái ở Hữu giang, phủ Nam Ninh; một cái ở Tả giang phủ Thái Bình; một cái ở động Cổ Xâm, Châu Khâm; một cái ở phía nam châu Bằng Tường đều là từ đời Tống”.
Quảng Châu kýchép cột đồng dựng ở Kiều Nam , có sách chép cột đồng dựng ở Châu Khê, lại có sách chép cột đồng dựng ở núi Phân Mao.
Như vậy các nhà viết sử Trung Quốc thời phong kiến đã đẩy dần cột đồng từ phía Nam (Lâm Ấp) lên phía Bắc (Quảng Tây) sau mỗi lần thất bại thảm hại ở Việt Nam của các triều đại Tống, Nguyên, Mông, Thanh.
Các vương triều Trung Hoa không chỉ ghi chép về cột đồng mà còn nguỵ tạo ra lời nguyền của Mã Viện để hù doạ người Lạc Việt, đó là câu: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy, Giao Chỉ diệt). Nguỵ tạo ra cái tên núi: Núi Rum ở Hưng Nguyên, Nghệ An thành núi Đồng Trụ. Cho sứ thần sang tra xét về cột đồng để lấy cơ xâm lược.
Đời Trần Thánh Tông, niên hiệu Thiệu Long thứ 15 (1272), Đại Việt sử ký toàn thưchép:
“Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột Lương sang dụ giới hạn cột đồng cũ. Vua sai viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội khám. [Phu] trở về nói rằng, cột đồng Mã Viện dựng lâu năm đã bị mai một, không còn tung tích gì nữa” (1).
Đời Trần Dụ Tông, niên hiệu Thiệu Long thứ 15 (1345), Đại Việt sử ký toàn thưchép:
“Mùa thu, tháng 8, sứ Nguyên là Vương Sỹ Hành sang hỏi việc cột đồng. Sai Phạm Sư Mạnh đi biện bạch việc này” (2).
Đời Lê có chuyện Giang Văn Minh đời vua Lê Thần Tông (1619 – 1643) cử đi sứ Trung Hoa, đại thần nhà Thanh ra câu đối về cột đồng:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Ông đã khảng khái đối lại:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Bạch Đằng từ xưa máu vẫn đỏ)
Người Thanh tức giận giết chết ông, một sứ thần thông minh và can trường.
Ở Việt Nam , các nhà viết sử nước ta từ thời Trần, Lê cho đến thời Nguyễn đã quan tâm nghiên cứu cột đồng.
Sách Việt sử lượcthời Trần là cuốn sử đầu tiên viết về cột đồng:
“Năm thứ 17 hiệu Kiến Vũ (41), nhà Hán phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, đi đánh Trắc. Năm thứ 18 (42), Viện dọc theo bờ biển mà tiến, phá núi, mở đường, di hơn 1.000 dặm tới Lãng Bạc, Viện đánh nhau với Trắc. Trắc càng khốn đốn chạy trốn bị Viện giết chết. Viện đuổi đánh dư đảng Trắc tới Cư Phong thì hàng được. Viện bèn dựng cột đồng làm chỗ biên giới cuối cùng, chia đất đó là hai huyện Phong Khê, Vọng Hải” (3).
Sách Đại Việt sử ký toàn thưđời Lê viết:
“Mùa xuân, tháng Giêng, Trưng nữ Vương cùng em gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, thế cô đều thua chết. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn lại là bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong thì bọn Đô Dương đầu hàng. Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán (cột đồng tương truyền ở trên động Cô Lâu, Châu Khâm. Viện có câu thề “Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt”. Người Việt ta đi qua dưới cột ấy thường lấy đá chất vào, thành như gò đống, vì sợ cột ấy gãy. Mã Tổng đời Đường lại dựng hai cột ở chỗ cũ của nhà Hán, ghi công đức của Mã Viện, để tỏ ra mình là dòng dõi của Phục Ba, nay chưa rõ ở chỗ nào. Hai sông Tả giang, và Hữu giang mỗi nơi có một cột” (4).
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mụcthời Nguyễn ghi trong lời chua:
“Cột đồng: sách Thuỷ Kinh chúcủa Lịch Đạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (Mã Viện tự là Văn Uyên) dựng cái mốc đồng để giới hạn cuối cùng của đất phía Nam Trung Quốc. Mốc đồng ấy tức là cột đồng” (5).
Tóm lại, sử sách xưa của Việt Nam hầu hết đều lệ thuộc theo sử sách Trung Hoa để chép cột đồng, chưa có sử sách nào đề cập đến thực chất vấn đề cột đồng.
Các học giả có uy tín của nước ta đã đề cập đến cột đồng, có nhiều tác giả có tên tuổi, nhiều nhà sử học lớn đã có những mục chuyên khảo về cột đồng trong các sách nỏi tiếng về lịch sử, địa lý Việt Nam . Người viết sớm nhất về cột đồng có lẽ là Nguyễn Trãi. Trong tác phẩm Dư địa chí, tác phẩm về địa lý sớm nhất của nước ta còn lại cho đến nay, Nguyễn Trãi đã viết:
“Vân Cừ, Kim Tiêu, Phân Mao ở về Yên Bang (sau huỷ đổi thành Yên Quảng) (6).
Phan Huy Chú đã viết trong phần Dư địa chícủa Lịch triều hiến chương loại chívề cột đồng giống như sách Đại Việt sử ký toàn thưcủa Ngô Thì Sĩ. Cả hai ông đều cho rằng Mã Viện đã chôn cột đồng ở Kiều Nam (7).
Từ trước đến nay vẫn lưu hành truyền thuyết “cột đồng Mã Viện” ở núi Lam Thành huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Tác giả đầu tiên viết về cột đồng Mã Viện ở núi Lam Thành, Hưng Nguyên là Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757 - 1858), ông đã viết: “Núi Lam Thành, ở xã Phú Điền, huyện Hưng Nguyên, xưa gọi là núi Đồng Trụ, lại có tên là núi Tuyên Nghĩa và Hùng Sơn (núi Gấu)” (8). Ông còn làm bài thơ vịnh núi Lam Thành có câu:
“Phục Ba đồng trụ diệt”
(Cột đồng Mã Viện bị mất tích).
Như vậy Bùi Dương Lịch đã nói đến địa danh núi Đồng Trụ và làm câu thơ nói về cột đồng Phục Ba (Mã Viện) như trên.
Còn Phương đình Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) là người đầu tiên ở nước ta bác bỏ truyền thuyết cột đồng trụ ở Hưng Nguyên. Ông viết trong Đại Việt sử ký toàn biên:
“Nghệ An có truyền thuyết rằng: ở huyện Hưng Nguyên có dấu cũ cột đồng. Vì lúc quân nhà Minh sang xâm lược nó mới nhổ cột đồng đi, nay chỉ còn lỗ cột. Nhất thống chí đời Minh, đời Thanh còn sai lầm huống chi là tục ngữ truyền văn ư? Có người lại phụ hoạ bảo đấy là chỗ Mã Tổng lập cột đồng, thì lại chưa xét kỹ đến bản truyện Mã Tổng. Đời Đường năm Nguyên Hoà thứ 5, Mã Tổng làm An Nam đô hộ, quân dân được nhờ. Tổng tự nghĩ mình là dòng dõi họ Mã, lấy 1.200 cân đồng, đúc 2 cột đồng dựng vào chỗ cũ Mã Viện để tỏ ra mình là dòng dõi Mã Viện. Thì huyện Hưng Nguyên quyết không phải chỗ cũ Mã Viện lập cột đồng” (9).
Khác với Nguyễn Văn Siêu, Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng tin ở truyền thuyết cột đồng huyện Hưng Nguyên, ông viết:
“Còn cột đồng ở phía Bắc quận Nhật Nam thì: xét sách Tuỳ thưchép “Lưu Phương đi đánh Lâm Ấp sang Đông Đồ Lê, qua phía nam cột đồng Mã Viện định ngày đến quốc đô Lâm Ấp”. Nay huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An có núi Cột Đồng, trên núi có thành. Trong thành có một hố to, tương truyền là một cột đồng Mã Viện lập ở đây, lúc nhà Minh chiếm lấy nước ta đặt làm quận huyện, tức vì dân không phục bèn đào bỏ đi” (10).
Đặng Xuân Bảng còn cho là Mã Tổng cũng đã chôn cột đồng ở huyện Hưng Nguyên. Ông viết tiếp:
“Cột đồng Mã Tổng đã lập ở chỗ cũ nhà Hán, mà cột đồng đời Hán ở huyện Hưng Nguyên, thì cột đồng Mã tổng lập cũng phải ở đấy”.
Sách Đại Nam nhất thống chído Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đời Tự Đức viết: “Núi Hùng Sơn cách huyện Hưng Nguyên 18 dặm về phía Nam, xưa gọi là núi Tuyên Nghĩa, lại có tên là núi Đồng Trụ, núi Lam Thành, núi Nghĩa Liệt ở giữa đồng bằng nỏi vọt lên một dãy cao lớn hùng vĩ trông ra sông Lam, có một ngọn còn lại nền cũ Thành phủ Nghệ An, do Trường Phụ nhà Minh đắp, trên đỉnh có lỗ cắm cờ. Tương truyền là chỗ cột đồng xưa. Bản triều, năm Minh Mệnh thứ 11, dân xã Phú Điền lấy đá ong ở sườn núi bắt được cái ông hoả hiệu đời xưa, nộp vào vũ khố, có lẽ ống hoả hiệu ấy là của Trương Phụ còn sót lại” (11).
Đại Nam nhất thống chíbiên soạn thời Tự Đức, chép về truyền thuyết cột đồng xưa nhưng không nêu rõ do ai lập.
Sách Đại Nam nhất thống chíbiên soạn đời Duy Tân do Cao Xuân Dục chủ biên chép gần giống như sách biên soạn đời Tự Đức, chỉ khác một chi tiết là dân Hưng Nguyên đào được hai ống hoả hiệu chứ không phải là một cái.
“Trên núi có một chỗ cắm cờ, tục truyền là chỗ đồng trụ ngày xưa. Triều Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), người làng Phú Điền vào đào đá ong ở ven núi, nhặt được hai cái ống hoả hiệu (ống lệnh) đem nạp vào vũ khố (kho chứa đồ đánh trận), đó là của tướng Tàu Trương Phụ còn bỏ sót lại” (12).
Giáo sư Đào Duy Anh nghiên cứu thư tịch thời Hán như Hậu Hán thư, Hậu Hán ký, Mã Viện truyệnvà các thư tịch chép việc liên quan đến Mã Viện đều không thấy chép về cột đồng. Mãi cho đến thế kỷ thứ IV mới có người viết về cột đồng. Giáo sư Đào Duy Anh viết:
“Sách đầu tiên chép chuyện cột đồng là sách Ngô Lụccủa Trương Bột ở đầu thế kỷ thứ IV, do sách Sơ học ký(q. 6) dẫn: “Ở Tượng Lâm, ngoài biển có một đảo nhỏ nhiều vàng. Đi 30 dặm từ Bắc đến Nam thì đến nước Tây thuộc (sau là Tây Đồ), Dân ở đó tự xưng là người Hán; có cột đồng, người ta nói là để làm cương giới cho (đế quốc Hán). Nhưng theo tài liệu ấy thì chưa thấy nói là cột đồng Mã Viện”.
Sau sách Ngô Lụcthì sách Quảng Châu ký, tác phẩm ở thế kỷ thứ IV hay thứ V, do một nhà chú giải Hậu Hán thảo (q. 5a) dẫn, là tài liệu đầu tiên nói Mã Viện dựng cột đồng:
“Viện đến Giao Chỉ, dựng cột đồng làm cương giới cuối cùng của nhà Hán vậy”.
Giáo sư Đào Duy Anh còn dẫn nhiều sách của Trung Hoa, của Pháp, của Việt Nam nói về cột đồng. Tác giả lập luận rằng:
“Ở trên uy danh của Mã Viện được lưu truyền lâu đời, dần dần đã nẩy nở truyền thuyết cột đồng Mã Viện”. “Sự dựng cột đồng là một chuyện truyền thuyết cho nên không thể chỉ định cụ thể vị trí của nó ở chỗ nào”.
Cuối cùng Giáo sư đào Duy Anh kết luận:
“Mặc dầu chuyện Mã Viện dựng cột đồng không đủ tin, truyền thuyết ấy đã dùng làm chỉ biện có giá trị để cho chúng ta tìm đến điểm tiến quân cuối cùng của Mã Viện” (13).
Vào năm 1943, Giáo sư Đào Duy Anh cũng đã chứng minh cột đồng Mã Viện lập ở núi Lam Thành, huyện Hưng Nguyên. Hơn mười năm sau Giáo sư lại không tin việc Mã Viện lập cột đồng là có. Khi chú thích cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam ,giáo sư ghi:
“Trong bài Les colonnes de bronze de Mã Việnđăng trong Bulletin des Amis du Vieux, Huế, N4 - October 1943, chúng tôi dã cố gắng chứng minh rằng nếu Mã viện dựng cột đồng thì tất phải là dựng ở núi Lam Thành. Bấy giờ chúng tôi thiên về chủ trương cho rằng Mã Viện có thể là dã dựng cột đồng thực. Nay xét lại vấn đề, chúng tôi thấy rằng không thể tin việc dựng cột đồng Mã Viện là có, nên xin cải chính lại rằng chỉ nên chứng minh rằng núi Lam Thành có thể là điểm cuối cùng tiến quân của Mã Viện, chứ không thể chứng minh rằng đó là nơi Mã Viện dựng cột đồng” (14).
Căn cứ vào những sử sách trên, đặc biệt là sách Đại Việt sử ký toàn biêncủa Nguyễn Văn Siêu và Lịch sử cổ đại Việt Namcủa Đào Duy Anh, cùng những khảo sát thực địa qua nhiều đời, chúng ta có thể kết luận rằng: “Truyền thuyết về cột đồng Mã Viện ở núi Lam thành là truyện hoang đường”.
Từ trước đến nay đã có nhiều tác giả Việt Nam dựa theo sử sách Trung Hoa cũ để viết về cột đồng. Do không vượt qua được “cái bóng Trung Hoa” nên các tác giả đó phần lớn tin truyện cột đồng là có thật. Các tác giả trên chỉ lo tìm kiếm các địa chỉ cụ thể chỗ dựng đặt “kim tiêu” (cột đồng) theo những điều mà sử sách Trung Hoa xưa viết ra.
May mắn thay nước Việt chúng ta vẫn còn có những tác giả tài ba, sáng suốt và đầy bản lĩnh, tìm đọc hết các tài liệu cổ, đồng thời phê phán, bác bỏ một cách khoa học truyện cột đồng mà sử sách các vương triều Tủng Hoa bịa ra theo lối “hiếu đại hí công”. Tác giả tiêu biểu nhất như chúng ta đã thấy là Phương đình Nguyễn Văn Siêu và Hoàng giáp Đặng Văn Thuỵ. Về sau Giáo sư Đào Duy Anh trong Lịch sử cổ đại Việt Nam cũng đã không tin việc Mã Viện lập cột đồng. Bên cạnh ba tác giả Việt Nam ở trên còn có hai học giả nổi tiếng người Pháp. Là H. Maspéro và R. A. Stein (15) cũng bác bỏ truyền thuyết về cột đồng của người Trung Hoa.
Với lập luận vững chắc của các học giả trên, ta có thể xác định rằng truyện “cột đồng” của người Trung Hoa trên đất nước Việt Nam là hoang đường.
Với những điều chứng minh trên đây, chúng tôi đề nghị:
Từ nay về sau các sách lịch sử, từ điển bách khoa, sách giáo khoa Việt Nam sẽ không viết về vấn đề “cột đồng” của người Trung Hoa ở trên lãnh thổ nước ta vì đó là chuyện hoang đường, bịa đặt.
Các sách, báo, tạp chí cùng các xuất bản phẩm khác nếu đề cập đến truyền thuyết “cột đồng” thì cần có lập luận bác bỏ.
Mong các bậc cao minh cùng những ai quan tâm đến vấn đề “cột đồng” trong lịch sử cho thêm ý kiến.
Chú thích
1.Đại Việt sử ký toàn thư , tập 2, Nxb VHTT, 2000, tr 55.
2. nt, tr 200.
3.Việt sử lược , Nxb Văn Sử Địa, H, 1960, tr 20.
4.Toàn thư , tập 1, Sđd , tr 216.
5.Khâm định Việt sử thông giám cương mụ c, Nxb Giáo dục, tập 1, Nxb KHXH, 1992, tr 192.
6.Nguyễn Trãi toàn tập , Nxb KHXH, 1969. tr 202.
7. Phan Huy Chú,Lịch triều hiến chương loại chí ,tập 1, Nxb KHXH, 1992, tr 192.
8. Bùi Dương Lịch,Nghệ An ký , Nxb KHXH, 1993, tr 118 - 124.
9. Nguyễn Văn Siêu,Đại Việt sử ký toàn biên ,Viện Sử học và Nxb VH xuất bản, 1997, tr 195.
10. Đặng Xuân Bảng,Sử học bị khảo , NXb VHTT, H, 1997, tr 463.
11.Đại Nam nhất thống chí (đời Tự Đức), Nxb KHXH, 1970, tr 139.
12.ĐNNTC (đời Duy Tân), Bộ VHGD xuất bản, 1965, tr 45.
13. Đào Duy Anh,Lịch sử cổ đại Việt Nam , Nxb VHTT, 2005, tr 450, 498.
14. Đào Duy Anh, Sđd, tr 501.
15. Dẫn theo Đào Duy Anh, sđd, tr 498, 500.