Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 28/04/2006 00:10 (GMT+7)

Truyền thống đám cưới Lịch sử văn hóa

Theo truyền thống của xã hội phụ hệ, khi con cái và tài sản được truyền lại theo dòng bố, phương pháp được ưa chuộng trong việc tìm vợ là thông qua việc trả tiền “thách cưới” cho người bố của cô dâu để đổi lấy những đứa con cô ta sẽ mang đến cho dòng họ. Lễ cưới được nhìn nhận như sự liên kết giữa những gia đình hơn là giữa các cá nhân, và hôn nhân thường được chính thức hóa một cách tượng trưng. Đối với người La mã, Hi Lạp và Do Thái trước đây, đôi nhẫn cưới bằng vàng có lẽ là biểu tượng thông dụng nhất của đám cưới, biểu hiện vật làm tin của chú rể về lời hứa hôn, và được trao như sự trả ơn đối với bố của cô dâu.

Cũng như vậy, lời thề nguyện trong đám cưới ở phương Tây phản ánh ý niệm chung về người vợ như là tài sản của người chồng thông qua việc đòi hỏi sự phục tùng của cô dâu. Thậm chí ngày nay ở nhiều xã hội phương Tây, người bố của cô dâu tháp tùng con gái ông ta tới bệ thờ và “cho cô ta đi” một cách ẩn dụ. Thêm vào đó, sự tiếp nhận của cô dâu đối với tên họ của chú rể vẫn duy trì là một tục lệ trong phần lớn các xã hội phụ hệ.

Mặc dù truyền thống đám cưới bằng mua bán đã biến mất ở châu Âu và Bắc Mỹ, việc thỏa thuận tiền “thách cưới” vẫn tiếp diễn cho tới gần đây ở Viễn Đông và các quốc gia Hồi giáo. Theo truyền thống người Hmông ở Lào thì một người phụ nữ thuộc quyền sở hữu của chồng cô ta, và một người vợ không có con có thể rời bỏ chồng của mình chỉ sau khi tiền thách cưới đã được hoàn trả lại đầy đủ. Một số hình thức đám cưới khác nhau phổ biến ở Tây Phi bao gồm đám cưới “giao kèo” nơi mà người vợ trở thành tài sản của người chồng và con cái cô ta, những người thừa kế của chồng. Nếu người chồng chết trước cô ta, thì một trong số những người thừa kế của chồng sẽ được thừa hưởng cô như một người vợ.

Một biến thể tiêu biểu của chủ đề mua dâu là tục “cướp dâu”. Một nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Ukraina cần phải có việc giả vờ bắt cóc cô dâu và một cuộc tranh cãi giữa gia đình cô dâu và chú rể. Tấn kịch này được coi như dấu tích của tình trạng thiếu phụ nữ trong những tộc du mục xưa ở khu vực Ukraina. Những nhóm người khác cũng vậy, bao gồm người Slovak và Hmông, theo truyền thống đã thực hiện “cuộc săn lùng” hay “vụ bắt cóc” cô dâu như một phần của lễ cưới.

Các nền văn hóa rất ít khi cho phép cá nhân tự chọn lựa người bạn đời của mình. Phần lớn các cuộc hôn nhân trên khắp thế giới theo truyền thống được sắp đặt bởi gia đình của cả hai bên. Thông thường cha mẹ sắp đặt để đạt được một cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối về mặt xã hội và kinh tế. Thường là cô dâu, và đôi khi là chú rể, không có vai trò gì trong sự quyết định bởi trong nhiều trường hợp cuộc gặp gỡ đầu tiên của đôi nam nữ diễn ra ngay tại đám cưới.

Những đám cưới được sắp đặt thường cần phải có sự tham gia của người làm mối. Vở nhạc kịch Người chơi viôlông trên nóc nhàđã làm cho vai trò của người làm mối Do Thái trở thành truyền thuyết, được gọi một cách chính xác là Shadchan. Tại Nhật Bản trước thế chiến thứ nhất, bố mẹ của cô dâu thuê một baishakuninđể tìm một người chồng phù hợp cho con gái mình. Những gia đình người Macedoni cũng dùng sự giúp đỡ của một người làm mối để thay mặt họ dàn xếp cuộc hôn nhân. Những cuộc hôn nhân của người Hindu theo truyền thống được sắp đặt bởi một ghatak, một người cao tuổi, được tôn kính, có thể là một người bà con thân thuộc của một hoặc cả hai gia đình.

Mặc dù cô dâu không có cơ hội lựa chọn bạn đời, cô vẫn được bảo vệ trong thực hành hôn nhân. Đó chính là chức năng của “của hồi môn”. Để bảo đảm cho một cuộc hôn nhân phù hợp hoặc chuẩn bị sự bảo hiểm đối với việc li dị hay góa bụa, gia đình của người phụ nữ đã cho cô của hồi môn gồm đồ vật, đất đai hoặc tiền bạc. Thông thường sự sắp đặt được chính thức hóa bằng khế ước. Vì vậy những đám cưới của người Do Thái truyền thống bao gồm một ketubbah, chứng thư được một giáo sĩ xác nhận các điều khoản trong thỏa thuận hôn nhân và bảo đảm cho người vợ những quyền đối với của hồi môn.

Phần lớn các lễ cưới, truyền thống cũng như hiện đại, đều bao gồm những nghi lễ mang tính biểu tượng tạo nên một sự kết hợp. Ví dụ như những đám cưới truyền thống của người Hindu gồm một nghi lễ gọi là kanyadan, trong đó tay của cô dâu chú rể được buộc chỉ đỏ bên trên một bình đựng nước, lá cây, hoa và quả, tượng trưng cho những thứ cần thiết của cuộc sống. Tương tự, truyền thống của người Campuchia yêu cầu mỗi người khách buộc một sợi dây quanh cổ tay của cô dâu chú rể. Tại đám cưới của người Ukraina, một miếng vải lễ ( rushnyk) được dùng để cuốn quanh cổ tay cô dâu chú rể trong suốt buổi lễ, và người Basuto ở Nam Phi dùng những mảnh yếm của một con bò đực bị giết cho mục đích tương tự. Trong một số đám cưới của người Thái và người Hi Lạp, đôi uyên ương đội những chiếc vương miện được nối với nhau bằng một dải ruy băng hoặc một sợi dây. Những nghi thức này và những hình thức tương tự khác của sự ràng buộc tạo nên một mối liên kết giữa các cặp vợ chồng, biểu tượng của sự thống nhất cao hơn về tinh thần.

Tháng 5 và tháng 6 là những tháng phổ biến cho việc cưới xin ở Mỹ, nhưng theo truyền thống những người Italia tin rằng việc kết hôn vào tháng 5 sẽ kết thúc trong cảnh góa bụa bởi vì tháng 5 là tháng của Đức mẹ đồng trinh và vì vậy không thích hợp cho đám cưới. Trong nhiều nền văn hóa bình dân đám cưới được tiến hành sau vụ thu hoạch khi có một thời gian nghỉ ngơi và nhiều đồ ăn để dùng cho những ngày lễ hội. Cũng theo tinh thần đó, một câu tục ngữ của người Ai-len cho rằng đám cưới trong vụ thu hoạch nghĩa là, “Bạn sẽ không có thời gian nghỉ ngơi sau những lo lắng hay công việc”. Thay vào đó, đối với người Ai-len, mùa đông là khoảng thời gian để làm mối hôn và lễ được mong đợi diễn ra vào trong kỳ Shrovetide(3 ngày trước mùa ăn chay), cũng như lễ ban phước cho đám cưới bị ngăn cấm trong suốt mùa ăn chay. Người Trung Quốc thường nghĩ về kỳ trăng non đầu tiên trong năm hoặc mùa hoa đào đầu tiên là khoảng thời gian có triển vọng cho hôn lễ, trong khi ở Nhật Bản tháng 10, 11, hoặc 12 âm lịch được ưa chuộng.

Mặc dù đối với những người Mỹ việc che gương mặt của cô dâu bằng một tấm mạng tượng trưng cho sự trong trắng và thuần khiết, thoạt đầu việc đó được dùng trong những nền văn hóa khác nhằm bảo vệ khỏi những tác động xấu hay sự quấy nhiễu. Trong một đám cưới Do Thái, chuppahhay cái mái vòm của lễ cưới, mang đến sự che chở cho bữa tiệc cưới (và tạo dựng một gia đình mới có tính chất tượng trưng) trong khi đám cưới Trung Quốc truyền thống dùng những chiếc lọng như những mái vòm. Ngược lại, những chiếc ghế đắp nổi, những chiếc thảm đỏ,giày dép đặc biệt và những hình thức cách ly khác hoặc biện pháp bảo vệ được dùng để chống lại ma quỷ trên trần gian. Ví dụ, cô dâu ở Trung Quốc, được che mạng kín hơn, đi rón rén tới kiệu cô dâu bằng đôi giày của bố cô ta, và ở xã hội phương Tây theo phong tục thì chú rể bế cô dâu qua bậc cửa. Thực tiễn ở phương Tây hiện nay về việc có một người nhà gái hộ tống cho đôi uyên ương xuất phát từ truyền thống La Mã, trong đó những phù dâu và phù rể mặc quần áo hoàn toàn giống nhau như cô dâu và chú rể, để đánh lạc hướng ma quỷ tấn công vào đôi vợ chồng mới cưới.

Trang phục cưới toàn màu trắng được dùng theo truyền thống ở Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản và Tây Phi. Trong khi đối với phương Tây màu trắng được coi như màu của sự trinh trắng, thì ở Nhật Bản nó là màu của tang tóc và báo hiệu rằng cô dâu lúc này đã chết. Ở Trung Quốc màu đỏ (màu của hỉ sự) là màu sắc thường dùng cho áo dài thắt ngang lưng và váy của cô dâu. Cũng như vậy, cô dâu ở bắc Ấn Độ theo truyền thống mặc bộ xari màu đỏ, và cô dâu đạo Hồi, là bộ ghararasmàu đỏ (những chiếc áo dài thắt ngang lưng và chiếc quần phồng to).

Lễ cưới ghi dấu một sự khởi đầu mới cho cả cô dâu và chú rể, nên nghi thức tẩy trần là một phần quan trọng của đám cưới. Việc cắt tóc của cô dâu và cạo râu của chú rể là ví dụ về nghi thức tẩy trần tượng trưng. Cắt tóc cô dâu thông thường biểu thị vị trí mới của cô ta trong cuộc sống cũng như che dấu cô ta khỏi những thế lực xấu.

Người ta còn tạo ra những trở ngại tượng trưng cho đôi vợ chồng cùng nhau vượt qua. Những người ăn mày ở Anh đã kết một hàng rào cây thạch nam cắt ngang lối đi của cô dâu và chú rể cho tới khi được cho tiền để dọn chúng đi. Trẻ em nông thôn Pháp chặn đường đi của cô dâu chú rể bằng rải ruy băng. Trẻ em ở Nhật Bản cũng theo một tập quán tương tự, dùng một cuộn dây rơm để ngăn lối đi và đòi đôi uyên ương tiền chuộc trước khi bỏ cuộn rơm ra.

Những nghi thức truyền thống của việc kết hôn có thể biến đổi từ nền văn hóa này tới nền văn hóa khác, nhưng lại có những điểm giống nhau không ngờ giữa những truyền thống hôn lễ của các nhóm người khác nhau-đánh dấu sự chuyển tiếp đối với tuổi trưởng thành, ám chỉ một cách tượng trưng tới vai trò tương lai của đôi vợ chồng như những người sinh đẻ. Những truyền thống này vẫn tồn tại vững chắc qua những quãng thời gian dài, nhiều truyền thống đã tồn tại nguyên vẹn một cách lạ thường ghi nhận tính bền vững hôn nhân như một thiết chế xã hội, và ý nghĩa biểu tượng sâu sắc gắn liền với nó.

Nguồn: Xưa và Nay, số 251&252, tháng 1-2006

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.