Trung Quốc hậu WTO: Những bài học phát triển
Có lẽ vì thế mà việc “thăng hạng” của Trung Quốc đã không gây chấn động lớn. Tuy nhiên, vẫn có không ít những ý kiến phản biện, nêu lên những mặt yếu kém, bất cập trong phát triển: “Trung Quốc vẫn còn là một nước nghèo” với thu nhập bình quân đầu người còn xếp ở hạng 107 trên thế giới (Le Figaro, 21-12-2005); “Bảy mất cân đối chủ yếu của tăng trưởng Trung Quốc” (Le Monde, 21-12-2005)... Tháng 2 vừa rồi, Giáo sư Guy Serman cho xuất bản một tiểu luận mang tên Năm con gà, mổ xẻ hiện tượng tăng trưởng của quốc gia có 1,3 tỉ dân này. Giáo sư cho rằng việc công bố một tỷ lệ tăng trưởng cao như trên “tự nó không phải là một thông tin kinh tế có ý nghĩa”, khi Trung Quốc đã trở thành “xưởng chế tạo của thế giới”.
Những vấn đề của tăng trưởng
Tăng trưởng GDP là rất thật, nhưng sau nó là cả một loạt vấn đề cũng rất thật. Trước nhất, về tính chất của tăng trưởng: nó phát sinh không phải từ đổi mới công nghệ trong sản xuất mà từ gia công là chủ yếu, khiến phụ thuộc nhiều vào sự đặt hàng từ bên ngoài. Sau nữa, về mặt phân bố, tức thụ hưởng tăng trưởng: “Nó đang làm giàu cho khoảng 150 triệu người Trung Quốc trong ba khu dân cư lớn, nhưng không mang lợi nhiều cho phần còn lại của đất nước”. Người ta chứng kiến “một sự bóc lột gia tăng khi nông thôn bị bỏ mặc trong lạc hậu, vẫn mãi trong cảnh đói nghèo”. Vì vậy, vấn đề cần đặt ra là thu nhập tính trên đầu người. Xét trên bình diện đó, “Trung Quốc vẫn còn là một trong những nước nghèo nhất hành tinh”.
So sánh giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Giáo sư Guy Serman có một đánh giá rất đáng suy nghĩ. Theo ông, dân chủ là một thành tố chủ yếu của chính sách kinh tế. Một cách nào đó, “dân chủ làm chậm tăng trưởng, nhưng phân phối nó tốt hơn”. Và đấy là trường hợp Ấn Độ với tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn, nhưng lại ổn định hơn Trung Quốc. Tỷ lệ này có thể dự đoán được trong một thời gian dài và được phân phối đồng đều trên cả nước. Ở Ấn Độ, nếu bạn tạo lập một nhà máy thì bạn vẫn có thể nghĩ đến việc nó sẽ còn đó trong 15-20 năm nữa. Tăng trưởng nhanh đến chóng mặt của Trung Quốc, nhìn thật ngoạn mục, nhưng cái giá của nó cũng đắt không kém: năm 2004, đã có đến 200.000 vụ xung đột xã hội chỉ riêng trong tỉnh Quảng Đông (Le Nouvel Observateur, 13 _ 19-4-2006). Phân hóa giàu nghèo, chênh lệch phân phối cùng bất công xã hội đã đến độ báo động về phương diện bình ổn chính trị.
Tờ Le Monde (ngày 23-5-2006) đăng một bài viết phản biện thẳng thừng hơn với đầu đề “Trung Quốc đang soán vị trí cường quốc thương mại mới”. Tác giả thừa nhận “vị thế của Trung Quốc trong nền thương mại thế giới không ngừng gia tăng”. Ngày nay, Trung Quốc là nhà xuất khẩu thứ ba của thế giới, sau Mỹ và Đức. Trung Quốc đã chiếm lĩnh các thị phần ngay tại Mỹ (15% nhập khẩu của Mỹ), lẫn ở châu Âu (13% nhập khẩu). Trung Quốc đã trở thành đối tác ưu đãi trong các khu vực có mật độ cao về nhân công không có tay nghề, và cả trong các khu vực có cường độ công nghệ lớn. Thị phần trong lĩnh vực dệt là 21% xuất khẩu thế giới, và trong lĩnh vực điện tử là 14%. Tuy nhiên, Trung Quốc chủ yếu vẫn còn là một nước chuyên lắp ráp các bộ phận sản phẩm, chưa có thế mạnh trên các thị trường công nghệ (chip điện tử, bán dẫn...).
Thực ra, nền kinh tế Trung Quốc không có sức cạnh tranh mạnh như người ta tưởng. Theo chỉ số của Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, Trung Quốc vẫn nằm ở thứ hạng 49. Cũng phải công nhận rằng Trung Quốc đã có bước tiến khá mạnh vào thời gian gần đây: trong bảng xếp hạng 36 nước trên thế giới có sức cạnh tranh kinh tế, do Viện Phát triển quản lý Lausanne tiến hành trong hai năm 2005-2006, đã có mặt Trung Quốc. Năm 2006, Trung Quốc đã nhảy lên 12 bậc, từ hạng 31 vào năm 2005 nhảy lên hạng 19 vào năm 2006. Nhưng cả ở thứ hạng mới này, Trung Quốc vẫn đứng sau Đài Loan (hạng 18) và đặc biệt là Hồng Kông (hạng 2). Trong khu vực châu Á, Trung Quốc xếp sau Nhật (hạng 17), và ở Đông Nam Á, sau Singapore xa (hạng 3).
Tất nhiên, Trung Quốc có chi phí lao động cực kỳ thấp, nhưng chỉ lợi thế đó thôi không thể tạo nên một nền kinh tế có sức cạnh tranh, mà còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác (thành tựu kinh tế mọi mặt, hiệu quả của các cấp chính phủ trung ương và địa phương...). Trong khi đó, năng suất sản xuất của Trung Quốc còn yếu kém (khiến cho các chi phí theo đơn vị tính ra cao hơn một số nước đang lên tại châu Á và châu Mỹ Latinh), chậm về mặt nghiên cứu phát triển, thiếu lao động lành nghề cùng hạ tầng cơ sở phát triển (vận tải, cung ứng điện...).
Vai trò của đầu tư nước ngoài
Thành thử, nền kinh tế Trung Quốc mang dấu ấn rất rõ của một nghịch lý: tương đối ít sức cạnh tranh nhưng lại chiếm được nhiều thị phần, đồng thời chen chân được vào những thị trường có mật độ tư bản chủ nghĩa cao, trong khi chỉ có một lực lượng nhân công ít tay nghề. Chính sự có mặt của các xí nghiệp nước ngoài trên đất Trung Quốc là nguồn gốc của sự gia tăng xuất khẩu từ Trung Quốc, chứ không phải từ các xí nghiệp nội địa. Các xí nghiệp nước ngoài trên đã thu hút nhân công ở các vùng bờ biển nơi họ đặt trụ sở, đồng thời tham gia vào việc phát triển hạ tầng cơ sở. Tính ra, đến 39% xuất khẩu của Trung Quốc là do các xí nghiệp có vốn 100% của nước ngoài thực hiện. Còn lại 20% là từ các xí nghiệp liên doanh, chỉ 41% là của xí nghiệp trong nước. Trong thập niên qua, thị phần của các xí nghiệp Trung Quốc tương đối ổn định (tăng 2-3%), trái lại thị phần của các xí nghiệp nước ngoài trên đất Trung Quốc tăng mạnh (4,4%). Các xí nghiệp nước ngoài chủ yếu là của các nước châu Á (chiếm 60%); các xí nghiệp của Mỹ đầu tư ngày một ít, còn sự hiện diện của Pháp cũng hạn chế (chỉ 1% nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài).
Những xí nghiệp nước ngoài vào làm ăn ở Trung Quốc có một mục tiêu kép: trong ngắn hạn họ lợi dụng những thế mạnh của nước này về chi phí nhân công thấp hơn so với phần lớn các nước châu Á; trong trung hạn và dài hạn, họ hy vọng chiếm được thị phần nội địa Trung Quốc, với một tiềm năng rất lớn (1,3 tỉ dân; tầng lớp trung lưu hiện đông gấp sáu lần so với năm năm trước, chiếm đến 180 triệu người). Việc Trung Quốc được gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001 còn cho phép gia tăng đông đảo hơn các xí nghiệp nước ngoài, và lúc này họ càng có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác những lợi thế không thể sánh được của nền kinh tế nước này, từ đó chiếm lấy các thị phần trên thương trường quốc tế.
Chung cuộc, cần phải coi việc tăng trưởng mạnh mẽ của Trung Quốc trong nền thương mại và kinh tế thế giới như là một thứ rất tương đối. Và trong cách tiếp cận vấn đề này, phải phân biệt trong tâm tưởng sản phẩm “made in China” (chế tạo tại Trung Quốc) với các sản phẩm “made by China” (chế tạo bởi Trung Quốc). Lợi ích tối hậu của việc hợp tác với nước ngoài phải là chuyển giao kỹ thuật của nước ngoài cho Trung Quốc, song điều đó diễn ra rất ít và chậm; trong khi đó khâu nghiên cứu và phát triển lại chậm đáng kể. Việc này làm giảm rất nhiều nguy cơ mà nền kinh tế Trung Quốc có thể tạo ra cho các nước phát triển nhất.
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 31-2006








