Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 28/02/2008 00:33 (GMT+7)

Trung Kỳ dân biến và những giá trị lịch sử

Phong trào là biểu tượng sinh động và hào hùng về sức mạnh, tinh thần đấu tranh chống áp lực, bóc lột của nông dân Việt Nam, mở ra khả năng nông dân là lực lượng cách mạng đông đảo và hùng hậu trong các cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc những năm sau đó. Trong tác phẩm Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ(năm 19240), Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước, chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người cu li biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước tạp dịch và thuế muối”.

Nghiên cứu nguyên nhân, diễn biến, kết quả của phong trài có tầm vóc quốc gia này, có thể rút ra những bài học có giá trị thực tiễn sâu sắc.

1. Chủ động phát động nhân dân; nhạy bén, linh hoạt, kiên quyết trong tổ chức đấu tranh

Ajabert trong cuốn Les destineses de l’Indochineđã ca ngợi: “Cuộc khởi loạn (vụ chống thuế) được tổ chức một cách thông thạo nhất - như là một sự luyện tập, một sự thao diễn thí nghiệm trong đó xứ Anmam tổng ước các năng lực của nó, kiểm điểm các lực lượng phiến loạn của nó”.

Thật vậy, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ đã được chuẩn bị theo một kế hoạch khá kỹ càng và được triển khai một cách chủ động và hoàn hảo bởi những thủ lĩnh tài ba.

Phan Châu Trinh trong cuốn “ Trung Kỳ dân biến thỉ nạt ký” cho biết: Năm ấy (tức năm 1908) vào hạ tuần tháng Giêng âm lịch, viên tri huyện Đại Lộc nhân việc xâu mà sách nhiễu, lại tăng khống số dân lên qúa cỡ thiệt trong xã, dân các xã không chịu nổi. Nguyên tháng trước đó, viên tri huyện vì nhiễu dân, bị dân các xã kiện tại Toà Công sứ. Toà xử viên ấy không có lỗi, nên hắn ỷ thế, lấy việc bắt xâu mà báo thù. Nỗi ai oán của nhân dân ngày càng tăng. Nhân một bữa đám giỗ ở làng Phiếm Ái (nay thuộc xã Đại Nghĩa), Trương Hoành, Hứa Tạo, Lương Châu cùng các ông: Trương Nhiếp, Trương Tổn, Trương Liên, Trương Côn, Trương Đính... từ câu chuyện thuế nặng sưu cao, nhân dân đói khổ, bàn viết đơn xin giảm nhẹ sưu thuế. Bước tiếp theo là tổ chức lấy chữ ký ở các làng xã. Sau đó, kéo dân lên huyện, yêu cầu tri huyện cùng dân đến tỉnh (La Qua, Điện Bàn) và đến Toà Sứ (ở Hội An) kêu kiện. Kế hoạch đang triển khai suôn sẻ, đơn xin giảm sưu thuế đã được 35 lý trưởng các làng ký. Song tên, lý trưởng làng La Đái sau khi ký đơn lại phản, lén đi báo tri huyện. Tình thế đã thay đổi, khiến những người thủ lĩnh đi đến quyết định mới: không đợi lấy đủ chữ ký mà ngay lập tức phát động quần chúng kéo đến huyện đường với lá đơn xin giảm thuế để “nhờ quan đứng xin giúp”. Thê snhưng, khi đến nơi thì tri huyện đã bỏ chạy xuống tỉnh cấp báo. Trong tình huống ấy tài trí của các thủ lĩnh càng thể hiện rõ nét. Hứa Tạo xương nghị trước quần chúng: “Quan đã đem về bẩm tỉnh rồi, dầu có tan về cũng không tránh khỏi tội tụ họp đông người, liên danh chữ ký, chắc sẽ bị tra tấn lôi thôi mang lấy cực luỵ vào thân. Vậy ta cứ theo quan vác đơn xuống tỉnh xin xâu, dầu có kết quả tốt cũng có danh nghĩa, tỏ cùng quan trên rõ thấu thực tình xin xâu, giảm thuế chứ không có điều gì trái phép”.

Sau khi bao vây tỉnh đường, biết quan huyện đã xuống Toà Sứ (Hội An), Trương Hoàn, Hứa Tạo và các thủ lĩnh khác tiếp tục lãnh đạo “đội quân” mặc áo rách, đội nón cời, mang theo cơm gạo ùn ùn kéo về Toà Sứ đấu tranh. Trên đường đi, nhiều người gia nhập đoàn biểu tình. Ngày 11 - 3 - 1908, khi đến Toà Sứ, lực lượng quần chúng tham gia đã lên đến hàng nghìn người. Công sứ Sác - lơ hoảng sợ, tìm cách xoa dịu, cho lính ra bảo dân về, hứa sẽ giải quyết sau. Dân nhất quyết không về. Khi hắn cho mời đại diện của đoàn biểu tình, các ông Trương Hoành, Hứa Tạo, Lương Châu,... thay mặt dân vạch rõ chế độ xâu dịch hà khắc của thực dân, phong kiến, yêu cầu giảm xâu, giảm thuế, đòi trừng trị những viên quan ô lại. Tên Công Sứ cho rằng việc giảm thuế, giảm xâu không phải phận sự của hắn và bảo dân giải tán chờ báo lên Khâm sứ Pháp và Nam triều xem xét. Thế nhưng, nhân dân quyết không về. Tức tối, Công sứ Sac – lơ ra mặt đàn áp, cho lính dùng gậy gộc, roi báng súng đánh đập quần chúng một cách dã man và bắt giam những người đại diện của dân. Trương Hoành, Hứa Tạo, Lương Châu và những thủ lĩnh khác rơi vào tay giặc. Nhưng ý chí của các ông đã được quần chúng giữ vững. Ngay lập tức nhân dân đã bầu các thủ lĩnh mới để tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh. Khắp nơi trong tỉnh Quảng Nam , đồng bào lũ lượt kéo về Toà Sứ đấu tranh. Một biển người “áo rách, nón cời, tóc ngắn” thay nhau bao vây Toà Sứ. Họ tổ chức ăn uống tại chỗ, lập ra đội quân xung phong chống khủng bố, đầu đội mo cau, quần áo lót mo cau đứng ở vòng ngoài để đỡ đòn đánh đập của lính. Sau này, không chỉ bao vây ở Toà Công sứ Hội An mà quần chúng ở phủ, huyện nào thì tổ chức bao vây phủ, huyện đó, đòi giảm xâu giảm thuế. Khí thế ngất trời. Từ Quảng Nam , phong trào lan rộng ra khắp mười tỉnh Trung Kỳ, trong đó có cả Kinh đô Huế. Tại đây, Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) cùng bạn học là Lê Đình Dương (Người Quảng Nam) đã tham gia đoàn biểu tình của nông dân Thừa Thiên - Huế và đảm trách việc thông ngôn.

2. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh trực diện với địch và sử dụng bạo lực quần chúng để diệt ác, trừ gian

Đây là đặc điểm nổi bật của phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam . Các thủ lĩnh đã phát động thành công các vụ diệt ác, trừ gian, vây bắt tri phủ, tri huyện, số tay chân của thực dân Pháp có nợ máu với nhân dân. Ngoài việc cùng các “đồng dân” khác trong vùng vận động quần chúng tham gia biểu tình vây toà công sứ Pháp, Trần Phước còn chỉ huy đoàn người đến thu thóc, tiền và đốt nhà tên Phó huyện ở làng Mậu Lâm, tổng Đức Thượng (nay thuộc xã Đại Lãnh, Đại Lộc), vây bắt tên Chánh tổng An Lễ Hạ gian ác, tên là Trần Quát (tức Chánh Năm), ném y xuống sông, kế liễu cuộc đời một tên tay sai phản dân, hại nước. Sau này, bản án kết tội Trần Phước do Phụ chính đại thần triều Duy Tân soạn thảo có đoạn: “Trần Phước (người xã Ngọc Kinh Đông, huyện Duy Xuyên) là một tên ác ôn, trước đã mưu đồng với bọn Hứa Tạo thủ xướng kêu càn, sau lại kết đảng bức ép bình dân, cứ y cung nhận có tới chợ Hà Nha, ép bán nhà thu thuế và rủ đến nhà Phó huyện bức sách bạc và cơm, thì việc ném Tổng Quát xuống sông, đốt trại Phó huyện, nhiều lần làm càn, tên Phước ấy thật là kẻ thủ xướng”. Còn Trần Thuyết (1857 - 1908) quê làng Phước Lợi, tổng Phước Lợi, phủ Tam Kỳ, cũng là một “kiệt hiệt” mà sự kiện ông lãnh đạo dân vây bắt Đề đốc Trần Tuệ (Đề Sự) luôn được người đời thán phục và ngợi ca. Nguyên Trần Tuệ là một tên quan coi xâu chuyên ức hiếp quần chúng. Khi các cuộc biểu tình nổ ra, Trần Tuệ trốn về phủ lỵ Tam Kỳ. Trần Thuyết dẫn đầu đoàn biểu tình đến vây phủ, yêu cầu tri phủ và đề đốc Trần Tuệ dẫn dân đi xin xâu. Trong cuốn “ Vụ kháng thuế ở Trung Kỳ năm 1908”, Huỳnh Thúc Kháng cho biết: “Toà Đại lý cách phủ lỵ 3 cây số, biết dân thù oán Đề Tuệ, Đại lý đưa lính lên phủ đưa Tuệ về toà. Khi ra cửa phủ, xe Đại lý đi trước, dân nhường lối đi, xe qua dân kéo theo. Trần Thuyết người làng Phước Lợi kêu to: “Dân ta xin quan Đại lý giao ông Đề để dân an gan”. Toàn dân đồng thanh “dạ” vang lừng. Đề Tuệ ngồi trên xe hộc máu gục xuống, về đến Đại lý thì tắt thở”. Sau này Trần Thuyết bị bắt với bản án có câu: “Thanh thanh thực Đề đốc can, nhất hô nhi thất tổng chi dân giai ứng” (hô một tiếng đòi ăn gan Đề đốc, dân bảy tổng đều ứng đáp).

3. Phải có một chủ thuyết, một ý thức hệ soi sáng, dẫn đường

Trung Kỳ dân biến 1908 nổ ra bởi nguyên nhân trực tiếp là nạn sưu cao thuế nặng nhưng nguyên nhân sâu xa của nó là do chủ thyết Dân Quyền của cụ Phan Châu Trinh đã thấm sâu vào tư tưởng sĩ phu và quần chúng lao động đương thời. Cố học giả Nguyễn Văn Xuân từng nhận định: Không thể tách rời chính biến này khỏi phong trào Duy Tân vì chính nó là cái thành tựu to lớn của phong trào này. Theo ông: “ thực chất” cúp tóc xin xâu “là một bộ phận thiết yếu, sự tiến triển vượt bậc và bộc phát khi phong trào (Duy Tân) lan rộng, thấm sâu vào quần chúng tự giác quyền lợi của mình dưới ánh sáng chủ nghĩa Dân Quyền, đứng lên để thực hiện các nguyện vọng chính đáng mà Phan Châu Trinh đã tuyên bố với thực dân”.

Hai năm trước đó, trong bức thư nổi tiếng “Đầu Pháp chính phủ thư” gửi cho Chính phủ Pháp ngày 15 - 8 - 1906. cụ Phan chỉ rõ cho người dân thấy rõ mối nhục mất nước và cái kiếp vong quốc nô: “Chao ôi! Một dân tộc đến 20 triệu người, kẻ có học thức cũng đến vài vạn mà tối tăm mịt mù, mềm yếu ươn hèn, không đủ bênh vực nhau, để liệu cách sinh tồn... Đã bao nhiêu năm nay, người Nam ở dưới bóng cờ nước bảo hộ mà đến bây giờ nòi giống một ngày một yếu hèn, không có kế gì cứu vớt lẫn nhau, đến nỗi nóng nảy điên khùng....”. Lại còn cái tệ quan lại An Nam hà hiếp dân lành: “cái điều Chính phủ (Pháp) thích là họ hết lòng, hêt sức làm cho được việc... Các quan tỉnh, quan phủ, quan huyện, ỷ quyền thế để doạ nạt dân ngu và đè nén sĩ phu, lại sợ dân hoặc có tức giận mà chống cự lại chăng... Bấy giờ dân An Nam đã sắp chết đến sau lưng, mà quan lại thì trừ việc truyền lệnh thu thuế, không còn biết việc gì nữa”. Phan Châu Trinh cũng chỉ ra trách nhiệm của những trí thức đương thời: “Chưa có người nào dám đến trước cửa quan Bảo hộ phơi gan nhỏ máu, kể rõ các thủ đoạn tàn ngược của quan trường, cùng là cái thực trạng thảm khổ của cùng dân, khiến cho các tội ác của quan lại, và cái khổ cảnh của quốc dân trong mấy mươi năm nay, lọt vài tai quan Bảo hộ”. Phải chăng những lời cảnh báo khá gay gắt trên của cụ Phan đã khiến Trương Hoành, Hứa Tạo, Lương Châu... suy nghĩ về bổn phận của kẻ sĩ, từ đó phát động và tập hợp quần chúng xuống đường đến huyện, tỉnh và Toà Công sứ xin xâu giảm thuế”.

Rõ ràng, phong trào chống sưu thuế năm 1908 đã chứng minh hùng hồn rằng, một chủ thuyết, một ý thức và hành động của đông đảo quần chúng. Hoàn toàn đúng như lời dạy thiên tài của V.I. Lênin: “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.

Tròn một thế kỷ đã trôi qua, kể từ thời điểm nổ ra phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam và Trung Kỳ, song ý nghĩa và giá trị lịch sử của phong trào vẫn không hề phai nhạt. Sức mạnh vĩ đại và tinh thần quật khởi của giai cấp nông dân Quảng Namnói riêng và Việt Nam nói chung đầu thế kỷ XX đang tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở thập kỷ đầu của thế kỷ mới này. Lòng yêu nước, chí khí kiên cường, trí thông minh của những người nông dân “đầu đội trời, chân đạp đất” tham gia phong trào năm ấy luôn là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn đối với hậu thế. Bởi vậy, việc sớm xây dựng ở Đại Lộc (Quảng Nam) - nơi khởi xướng phong trào - một công trình tưởng niệm tương xứng với tầm vóc và ý nghĩa của sự kiện lịch sử này nhằm ghi nhớ một mốc son chói lọi trong lịch sử nước nhà và tôn vinh công trạng những người con ưu tú của dân tộc và quê hương - thiết nghĩ, rất đáng làm và nên làm.

Nguồn: Khoa học & Sáng tạo, số 59 + 60, 12/2007 + 1/2008.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.