Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 21/09/2010 18:30 (GMT+7)

Trao đổi về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền

Về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền

Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” lần đầu tiên được ghi nhận trong văn kiện của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Nguyên tắc xuất phát từ quan điểm cho rằng môi trường là một loại hàng hóa đặc biệt (vì nó mang tính cộng đồng, ai cũng đều sử dụng). Khi khai thác, sử dụng môi trường thì phải trả tiền (tiền bỏ ra để mua quyền khai thác, sử dụng, quyền tác động đến môi trường). Nhà nước đứng ra để bán quyền tác động đó. Người được hưởng lợi từ việc trả giá này là toàn thể cộng đồng và nhà nước là người đại diện đứng ra thu tiền và sử dụng tiền để tiếp tục đảm bảo việc bảo vệ môi trường.

Khoản 4 điều 4 Luật Bảo vệ môi trường quy định: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục,bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật”. Chủ thể phải trả tiền là những chủ thể khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và những chủ thể gây ô nhiễm môitrường theo nghĩa rộng (gây ô nhiễm trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép). Không phải mọi trường hợp gây ô nhiễm môi trường đều phải trả tiền. Những trường hợp không phải trả tiền phụ thuộc vàopháp luật của mỗi quốc gia, thông thường là những chủ thể khai thác, sử dụng môi trường, tác động vào môi trường để phục vụ cho nhu cầu thiết yếu mang tính chất tự nhiên thì không phải trả tiền. Vídụ, Luật Tài nguyên nước tại điều 24 quy định những trườnh hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước với quy mô nhỏ trong phạm vi gia đình hoặc khai thác, sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh thìkhông phải thực hiện theo nghĩa vụ tài chính. Như vậy, có thể hiểu họ cũng không phải trả tiền mặc dù có hành vi khai thác sử dụng tài nguyên. Hay như một doanh nghiệp có hành vi xả nước thải vào môitrường, họ được xem là chủ thể gây ô nhiễm và phải trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm dưới dạng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, nhưng cùng hành vi xả thải của cá nhân, thậm chí hộ gia đình,nhưng quy mô nhỏ thì cũng được xem là hành vi gây ô nhiễm nhưng các chủ thể này không phải trả tiền.

Nguyên tắc này trước hết nhằm mục đích đảm bảo sự công bằng trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệmôi trườngvì môi trường là của chung, nếu như môi trường xấu đi thì tất cả các thành viên trong phạm vi ảnh hưởng đều phải gánh chịu trong khi sự đóng góp vào việc làm xấu đi của môi trường làkhông giống nhau. Nguyên tắc này còn tác động vào lợi ích kinh tế của chủ thể thông qua đó tác động đến hành vi xử sự của các chủ thể với môi trường theo hướng có lợi cho môi trường.

Để thực hiện nguyên tắc thì phải đảm bảo những yêu cầu: số tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải tương xứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu đến môi trường, tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải đủ sức tác động đến lợi ích, đến hành vi của các chủ thể.Tiền ở đây phải mang tính ngang giá, nhưng không phải thu mang tính tượng trưng. Đã từng có một đề án của một địa phương về việc áp dụng thí điểm thu phí bảo vệ môi trường đối với các phương tiện giao thông cơ giới, chủ yếu áp dụng đối với xe gắn máy 300.000đ/xe/năm, và xe hơi 5.000.000đ/xe/năm. Việc thu như thế này là bình quân và không thể làm giảm lượng xe lưu thông vì có xe xử dụng nhiều có xe sử dụng ít, mức độ tác động xấu đến môi trường của từng xe là khác nhau. Nếu thu phí bảo vệ môi trường bằng cách tính vào giá xăng dầu thì sẽ đảm bảo mức độ gây ô nhiễm môi trường của các phương tiện giao thông cơ giới tỉ lệ thuận với tiền chủ xe phải trả. Lúc này vừa góp phần hạn chế lưu thông vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, nếu việc thu phí này quá thấp (100đ/lít xăng chẳng hạn) thì cũng không tác động đáng kể gì và người ta vẫn chấp nhận bỏ tiền ra để nộp vì thu như thế cũng là thu tượng trưng.

Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định nhiều hình thức trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm, tựu chung gắn liền với cách hiểu về chủ thể gây ônhiễm, đó là tiền phải trả cho việc khai thác tài nguyên (thuế tài nguyên, đấu giá quyền khai thác tài nguyên) hay tiền phải trả cho việc phát thải vào môi trường, sử dụng một số dịch vụ môi trường(thuế môi trường; phí bảo vệ môi trường; phí xả thải; các loại phí dịch vụ môi trường...). Ví dụ, phí dịch vụ gom chất thải rắn là loại phí dịch vụ môi trường, được áp dụng khi các chủ thể sử dụngdịch vụ môi trường (thu gom chất thải ). Chất thải rắn ở đây được hiểu là rác thải sinh hoạt, rác thải dịch vụ thương mại, kể cả các chất thải đô thị độc hại. Dịch vụ liên quan đến chất thải rắn sẽcó tác dụng tích cực không chỉ riêng cho môi trường mà còn cho cả phát triển kinh tế. Chính vì thế việc xác định giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn được nghiên cứu, xem xét kỹtrên cơ sở vừa đảm bảo được chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý vừa gián tiếp khuyến khích các hộ gia đình giảm thiểu rác thải. Việc xác định mức phí của dịch vụ môi trường có thể thuận lợi khi cânnhắc, phân tích các chi phí dựa trên trọng lượng hoặc thể tích của rác thải. Nếu tiếp cận theo khối lượng rác thải thì các hộ gia đình phải có thùng đựng rác riêng đặt ở một vị trí cố định và việctrả phí phải hoàn toàn tự nguyện trên cơ sở khối lượng rác thải sản sinh ra hằng ngày hoặc hằng tuần. Còn một cách tiếp cận khác là theo số lượng người trong một gia đình, căn cứ vào số người, ví dụ3 người một suất phí dịch vụ môi trường... để xác định mức phí dịch vụ môi trường. Theo cách này có thể không được công bằng nhưng thuận lợi hơn, tuy nhiên không khuyến khích các hộ gia đình giảmthiểu rác thải.

Hay như tiền ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế đã gây ra ô nhiễm môi trường. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp trước khi đầu tư phải đặt cọc tại ngân hàng một khoản tiền nào đó đủ lớn để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và công tác bảo vệ môi trường. Số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường. Trong quá trình đầu tư và sản xuất, nếu cơ sở có các biện pháp chủ động khắc phục, không để gây ra ô nhiễm môi trường hoặc suy thoái môi trường đúng như cam kết, thì số tiền ký quỹ sẽ được hoàn trả lại cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết hoặc phá sản, số tiền trên được rút ra từ tài khoản ngân hàng chi cho công tác khắc phục sự cố ô nhiễm đồng thời với việc đóng cửa doanh nghiệp. Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích, đối với nhà nước không phải đầu tư kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách, khuyến khích các chủ thể hoạt động bảo vệ môi trường.

Các vấn đề cần đặt ra khi xây dựng Luật Thuế môi trường

Thứ nhất,về đối tượng chịu thuế: Dự thảo xây dựng còn mang tính chung chung, chưa bao quát hết. Bản thân các chất (sản phẩm) gây ra ô nhiễm môi trường không đơn thuần là 5 nhóm được liệt kê trong Dự thảo Luật.

Thứ hai,đối tượng không chịu thuế chưa gắn liền với cách hiểu người gây ô nhiễm được miễn trừ nghĩa vụ phải trả tiền, là những chủ thể gây tác động xấu hoặc khai thác, sử dụng tài nguyên với quy mô nhỏ, nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của bản thân.

Thứ ba, căn cứ tính thuế và biểu khung thuế môi trường còn chưa tương ứng với yêu cầu của nguyên tắc. Với cách tính của Dự thảo thì việc thu thuế môi trường chưa đảm bảo sự công bằng trong việc khai thác và bảo vệ môi trường.

Thứ tư,về các vấn đề khác: Cần xem xét tên gọi của Luật là “Luật Thuế môi trường” hay “Luật Thuế bảo vệ môi trường”, tính cụ thể của một văn bản luật hay yêu cầu cần thiết phải ban hành một văn bản để đáp ứng nhu cầu xã hội, các quy định mang tính chung chung, thiếu sự cụ thể hóa đến mức cần thiết.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh
Đại hội Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức thành công vào sáng ngày 21/7. Tại Đại hội, đại diện Đoàn Thanh niên VUSTA đã có bài phát biểu chúc mừng đại hội. Bí thư Đoàn Thanh niên Lê Thị Thủy khẳng định: “Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh và luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước”.
Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.