Toàn cầu hóa và Việt Nam - Trách nhiệm của trí thức*
1. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa được nhiều người hiểu theo những cách khác nhau. Trong bài này tôi dựa theo định nghĩa khá rộng được trình bày trong Wikipedia. Toàn cầu hóa là khái niệm về quá trình đa dạng, phức tạp của những thay đổi kinh tế, xã hội, công nghệ và văn hóa được xem như sự phụ thuộc lẫn nhau, sự hội nhập và tương tác ngày càng tăng giữa người dân và các doanh nghiệp ở những vị trí xa nhau trên thế giới. Như thế sự nhấn mạnh ở đây là, toàn cầu hóa là một quá trình biến đổi về nhiều mặt, không chỉ về kinh tế, trong đó sự tương thuộc, hội nhập, tương tác của người dân và giới kinh doanh không ngừng tăng trên phạm vi toàn thế giới.
2. Việt Nam và quá trình toàn cầu hóa
a) Quá trình toàn cầu hóa
Sau khi bản dịch cuốn “Thế giới phẳng” của Thomas Friedman xuất hiện tháng 9-2005, và nhất là sau khi cuốn sách được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành vài tháng nay, ở Việt Nam nhiều người đã theo cách phân loại toàn cầu hóa của ông thành ba thời kì: “Thời đại đầu kéo dài từ 1492- khi Columbus dương buồm, mở ra sự giao thương giữa Thế giới Cũ và Thế giới Mới - cho đến khoảng 1800”. Ông gọi thời đại này là Toàn cầu hoá 1.0. “Toàn cầu hoá 1.0 là về các nước và sức mạnh cơ bắp” và các quốc gia là các tác nhân chính. “Kỉ nguyên lớn thứ hai, Toàn cầu hoá 2.0, kéo dài từ 1800 đến 2000, bị gián đoạn bởi Đại Khủng hoảng và Chiến tranh Thế giới I và II”. Thời đại này làm thế giới co từ cỡ trung bình xuống cỡ nhỏ. Trong Toàn cầu hoá 2.0, nhân tố then chốt của thay đổi, động lực thúc đẩy hội nhập toàn cầu, đó là các công ti đa quốc gia”. Toàn cầu hoá 3.0, theo Friedman, bắt đầu từ khoảng năm 2000. “Toàn cầu hoá 3.0 làm thế giới co từ cỡ nhỏ xuống cỡ bé tí và đồng thời san bằng sân chơi. Và trong khi động lực trong Toàn cầu hoá 1.0 là các nước tiến hành toàn cầu hoá và động lực trong Toàn cầu hoá 2.0 là các công ti tiến hành toàn cầu hoá, động lực trong Toàn cầu hoá 3.0 - thứ cho nó đặc trưng độc nhất vô nhị - là năng lực mới tìm thấy cho các cá nhânđể cộng tác và cạnh tranh toàn cầu”.
Vũ Thành tự Anh (Tia sáng 3/3/2006) gần giống Friedman, khi cho rằng toàn cầu hóa đã trải qua 3 thời kì: thời kì thứ nhất 1492 - 1760; thời kì thứ hai 1760 - 1914 gắn với cách mạng công nghiệp; một giai đoạn giữ hai làn sóng toàn cầu hóa 1914 - 1980; và thời kì thứ ba 1980-?).
![]() |
Hành trình đầu tiên của Columbus 1492, lấy theo Vũ Thành Tự Anh. |
Tôi nghĩ lấy cái mốc năm 1492, như năm khởi đầu của làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất, là có lí nhưng chỉ có tính chất ước lệ, bởi vì cũng có lí khi quay trở lại cả hơn một thiên niên kỉ rưỡi sớm hơn và lấy sự hình thành con đường tơ lụa làm điểm mốc, vào khoảng năm 100 trước công nguyên. Quá trình giao thương đó trải qua bao thăng trầm và việc giương buồm đi theo hướng Tây của Columbus năm 1492, hay các đợt thám hiểm của Trịnh Hòa bắt đầu từ năm 1405, hoặc sự hình thành con đường tơ lụa trên biển vào khoảng năm 700 là những sự tiếp nối của quá trình giao thương, hội nhập đó.
![]() |
Con đường tơ lụa hình thành khoảng từ năm 100 trước công nguyên, nguồn: Wikidedia. |
b) Việt Nam và toàn cầu hóa
Có người, không phải không có lí, cho rằng quá trình toàn cầu hóa mới bắt đầu ở Việt Nam từ 1986. Nếu nhìn sự phát triển thương mại, hội nhập hay toàn cầu hóa như một quá trình như trên, ở tầm dài hơn, thì cũng có thể có hình dung khác đi một chút về Việt Nam tham gia quá trình hội nhập quốc tế. Các nhà lịch sử kinh tế đều cho rằng nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến mang tính “trọng nông ức thương”, không khuyến khích thương mại và vì thế cản trở sự hội nhập. Sử sách không nói mấy về sự phát triển kinh tế Việt Nam trong mấy ngàn năm qua, nhất là từ khi chúng ta có lịch sử thành văn với “Đại Việt sử kí toàn thư” của Lê Văn Hưu hoàn thành năm 1272. Các sản phẩm có thể xuất khẩu thời đó có lẽ chủ yếu là lụa, gia vị, hương liệu (hồ tiêu, quế, hồi, trầm hương v.v.) và gốm sứ. Có ít tư liệu nói về sản xuất hay xuất khẩu những sản phẩm này trong lịch sử. Lịch sử có nhắc đến Vân Đồn một thương cảng lâu đời của VN, hình thành từ thời Lý (thế kỷ 11-12) và phồn thịnh vào thời Trần (thế kỷ 13-14). Các vua Trần đã cử Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư - những nhân vật lịch sử nổi tiếng - trấn giữ và trông coi việc buôn bán với các thương nhân nước ngoài ở khu thương cảng này. Vân Đồn sầm uất một thời rồi sa sút và rơi vào quên lãng. Lịch sử cũng nhắc đến Phố Hiến (Hưng Yên) bên cạnh Kẻ Chợ (Hà Nội) như những nơi buôn bán sầm uất thời thế kỉ 17. Sự hiện diện của các thương gia, các thương điếm và tàu bè nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha v.v. tại phố Hiến từ những năm 1630 trở đi đã chứng tỏ sự giao thương nhộn nhịp đã xảy ra ở đây, đáng tiếc từ cuối thế kỉ 17 tình hình khu vực và trong nước đã biến chuyển theo hướng không có lợi cho sự phát triển và Phố Hiến dần suy tàn. Hội An đã từng là một trong những trung tâm thương mại quốc tế lớn ở Đông Nam Á từ thế kỷ 15 đến 19. Những phát hiện mới đây khi trục vớt các tàu bị đắm ven biển Việt Nam, những kết quả khai quật ở Chu Đậu Hải Dương, ở Hoàng Thành Thăng Long gần đây cũng như những nghiên cứu về gốm Việt Nam mới đây chứng tỏ một điều chắc chắn: Việt Nam đã xuất khẩu không ít đồ gốm ra nhiều nước trên thế giới. Theo Ivo Vasiljev trong bài “Những giá trị từ đáy biển” ( http://vietantique.com/research%20articles/gia-tri-day-bien.htm): “… giữa thế kỷ và nửa sau thế kỷ 15, thời các vua Lê Thái Tông (1434 - 1441), Lê Nhân Tông (1442 - 1459) và Lê Thánh Tông (1460 - 1497) là thời kỳ nước Đại Viêt, sau khi đã đánh đuổi quân xâm lăng của nhà Minh, trở nên cực kỳ phát triển và thịnh vượng về các mặt chính trị kinh tế và văn hoá. Không lấy gì làm lạ gốm sứ của Chu Đậu - Mỹ Xá và vùng lân cận (thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay) hồi đó được phát triển đến độ cao và được xuất khẩu khắp vùng Đông Nam Á và xa hơn nữa… Việt Namđã xuất khẩu gốm sứ này ra nhiều nước hải ngoại trước khi ông Columbus phát hiện châu Mỹ hơn 50 năm trời”. Theo ông Trần Khánh Chương, Tổng thư kí hội Mĩ thuật Việt Nam trong bài “Gốm Chu Đậu - Mốc son của gốm Việt Nam” viết năm 2001 có thể đọc được mạng trên (( http://vietantique.com/antique/chu-dau/chu_dau.htm): “Các sản phẩm đa dạng của gốm Chu Đậu cho thấy vùng gốm Chu Đậu không chỉ sản xuất đồ gốm phục vụ trong nước mà còn hướng tới việc xuất khẩu ra nước ngoài với số lượng lớn theo đơn đặt hàng của các thương nhân vì vậy ta có thể thấy gốm Chu Đậu trong các sưu tập của các Bảo tàng ở Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippine, Nhật Bản, Hà Lan, Lucxembua, Thụy Điển, Pháp, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ, Canada...” Hay bạn đọc có thể có những thông tin liên quan bổ ích từ loạt bài rất lí thú về gốm ChuĐậu của Bùi Ngọc Tuấn trên Talawas (từ tháng 5-2006 đến tháng 9-2006). Riêng điều này cũng cho thấy Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào quá trình đầu hội nhập trước khởi điểm 1492 ít nhất 50 năm!
Tất nhiên quá trình hội nhập này đã trải qua rất nhiều thăng trầm với nhiều giai đoạn hầu như ngưng trệ hoàn toàn. Cho nên Vũ Thành tự Anh cũng có lí khi cho rằng, “toàn cầu hóa là một hiện thực mới ở Việt Nam . Chúng ta mới chỉ thực sự làm quen với toàn cầu hóa trong vòng 20 năm trở lại đây. Nhớ lại là vào cuối thế kỷ 15, khi làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất bắt đầu thì dân tộc ta vẫn còn bế tắc dưới thời vua Lê, chúa Trịnh; và đèo Ngang vẫn còn sừng sững trên tiến trình Nam tiến của dân tộc”. Trong thế kỉ 17 tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn, mà một minh chứng là thông tin do nhà văn Nguyên Ngọc (Tia Sáng 20-11-2006) cung cấp. Nhà văn Nguyên Ngọc có nhắc đến cuốn sách của giáo sư Vĩnh Sính (Việt Namvà Nhật Bản: Giao Lưu Văn Hóa NXB Văn Nghệ T/P HCM 2001) kể về chuyện Chu Tuấn Thủy trung thần nhà Minh chạy sang Việt Nam ít nhất 5 lần và đã ở đây lâu nhất từ 1654-1658. Ông tha thiết muốn giúp Việt Nam trong thời kì toàn cầu hóa 1.0. Nhà cầm quyền Việt Nam bấy giờ đã tiếp Chu Tuấn Thủy theo kiểu “hống hách bắt phải lạy, hỏi có những bằng cấp gì, khi biết chẳng có bằng cấp gì cả thì hết sức coi thường, rồi bâu lại cật vấn toàn những chuyện vớ vẩn về sách vở giáo điều và tướng số mê tín, rồi bắt giam, câu lưu, có lúc Chu đã suýt phải bỏ mạng... Cuối cùng, năm 1658, Chu ốm nặng, phải tìm cách quay về Nhật Bản. ở Nhật, hoàn toàn ngược lại, được lãnh chúa của một trong ba lãnh địa lớn nhất của Nhật lúc bấy giờ là Tokugawa Mitsukumi mời làm tân khách, Chu đã đem sở học của mình hết lòng giúp Mitsukumi, và Mitsukumi chính là người chủ xướng học phái Mito, có ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước dẫn đến Minh Trị Duy Tân, như chúng ta đều biết, đã đưa nước Nhật đến một số phận khác hẳn chúng ta, không những giữ vững được độc lập dân tộc trước bão táp toàn cầu hóa mà còn trở thành cường quốc, cho đến ngày nay...”
Trong “An Nam cung dịch sử” Chu Tuấn Thủy có nhận xét cay đắng và thẳng thắn về Việt Nam như sau: “Tuy là nước nhỏ, nhưng khí kiêu ngạo, học vấn nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể tuyển chọn được người tài năng trong nước … của mình, nhưng không tránh được vẻ ếch ngồi đáy giếng”.
“Trong làn sóng toàn cầu hóa thứ hai, chúng ta, lại một lần nữa, không phải là người trong cuộc. Nếu như dân tộc ta đã không có ý thức về làn sóng thứ nhất thì chúng ta đã chủ động chối bỏ một cách có ý thức làn sóng thứ hai” (Vũ Thành Tự Anh). Minh chứng cho sự chủ động chối bỏ này là sự thực, rằng giữa thế kỷ 19, nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất chủ trương mở cửa về ngoại giao, về thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Triều đình phong kiến Việt Nam đã chọn con đường ngược lại: bế quan tỏa cảng. Và sự trả giá là chúng ta trở thành thuộc địa. Cũng trong khoảng thời gian đó, Triều đình Minh Trị của Nhật Bản đã chọn giải pháp mở cửa giao thương, học hỏi kiến thức của nước ngoài và nhanh chóng biến Nhật Bản thành một cường quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế thuộc địa cũng đã tạo ra cho chúng ta cơ hội lớn hơn để giao thương với nước ngoài. Tuy không chủ động và kết quả kém xa so với của các nước chủ động hội nhập, song quá trình hội nhập vẫn diễn ra dù chậm chạp với nhiều thăng trầm và méo mó như những căn cứ lịch sử nêu ở trên chứng tỏ. Tuy nhiên nếu nhìn theo tầm rộng hơn một chút (không chỉ về kinh tế và với thời gian dài hơn) chúng ta có thể thấy bức tranh hội nhập của Việt Nam trong giai đoạn thứ nhất, thậm chí cả giai đoạn thứ hai, một cách chi tiết hơn phác họa ở trên (nếu xét cả tương tác văn hóa và xã hội giữa Việt Nam-Trung Hoa, Việt Nam-Ấn Độ, Việt Nam- Chămpa, Việt Nam- Phương Tây sẽ cho ta bức tranh sinh động hơn).
Sau bao năm chiến tranh liên miên Việt Nam chỉ thực sự có thể phát triển trong điều kiện hòa bình và ổn định hơn 20 năm nay. Quá trình hội nhập bước vào giai đoạn mới từ 1986, với thời kì đổi mới. Nó đã diễn ra cũng với nhiều cản trở, trục trặc nhưng đã tăng tốc dần dần và lấy được đà mạnh mẽ trong mấy năm lại đây. Gần 10 năm sau khi khởi động quá trình đổi mới, ngày 4-1-1995 nước ta nộp đơn xin gia nhập WTO. Ngày 28-7-1995 Việt Nam gia nhập Asean. Năm 1998 Việt Nam tham gia APEC.
![]() |
Tình hình chính trị, các thương cảng và xuất khẩu gốm từ Việt Nam. |
Có thể rút ra được những bài học gì từ quá trình hội nhập thăng trầm và trầy trật của Việt Nam ? Tại đây chỉ xin điểm qua vài bài học mà tôi nghĩ là quan trọng. Bài học đau xót và quá đắt là tầm quan trọng của tầm nhìn, của chiến lược và chính sách của giới cầm quyền. Trong chế độ chuyên quyền, nếu nhà độc tài là “nhà độc tài nhân từ”, có đầu óc sáng suốt, lấy quyền lợi của nhân dân và quốc gia làm trọng, thì người chuyên quyền đó có thể có tầm nhìn đúng về hội nhập. Đáng tiếc nhiều kẻ tự nhận là “độc tài nhân từ” lại là độc tài thật sự và thiển cận. Và đại bộ phận các nhà chuyên chế là như vậy. Để tránh bài học đau xót về tầm nhìn của nhà cầm quyền, hiện chưa thấy cách nào tốt hơn là thiết lập nền dân chủ thực sự, nơi người dân có thực quyền phế truất các nhà lãnh đạo một cách hòa bình thông qua bầu cử tự do. Tuy nhiên, người dân, các doanh nghiệp mới là những người đóng vai trò chính và trực tiếp trong quá trình này, vì thế tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho giới kinh doanh hoạt động và phát triển, khuyến khích họ hội nhập và chủ động hội nhập là hết sức quan trọng. Ngày nay toàn cầu hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, với quy mô ngày càng rộng trên phạm vi toàn cầu theo nghĩa đen của từ “toàn cầu”, chính vì thế sự linh hoạt, khả năng thích ứng nhanh có tầm quan trọng đặc biệt.
c) Ứng xử ra sao?
Như vậy có thể nói chúng ta bắt đầu hội nhập từ khá sớm, song trải qua rất nhiều thăng trầm và gián đoạn, chúng ta mới thực sự chủ động hội nhập từ 1986, gần 7 năm sau các cuộc chiến tranh liên miên. Khoảng cuối năm nay, 30 ngày sau khi Quốc hội Việt Nam phê chuẩn nghị định thư gia nhập WTO, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình hội nhập của đất nước. Người ta bàn tán nhiều về những cái được những cái mất, về những cơ hội và những thách thức với ngầm ý “cái được” nhiều hơn “cái mất”, “cơ hội” nhiều hơn “thách thức”. Tôi nghĩ cách luận bàn như vậy có thể dẫn đến nguy hiểm, gây hiểu lầm, đánh lạc lối. Cái được của một nhóm người là cơ hội mà họ có thể tận dụng được nhưng cũng có thể để lỡ. Cái mất của một nhóm người khác là mất 100% không thể so sánh với cái gì cả, phải cảnh báo, hỗ trợ họ để họ tìm cách đi khác thuận lợi hơn.
Các thỏa thuận đã được kí, không nên mất nhiều thời gian để bàn về “giá như”. Hãy xuất phát từ các thỏa thuận đã được kí và những cam kết đã được công bố. Mỗi người, mỗi doanh nghiệp, mỗi cộng đồng doanh nghiệp vì lợi ích của chính mình hãy tìm hiểu kĩ (nếu được các chuyên gia, các tổ chức hay nhà nước hỗ trợ trong việc tìm hiểu, lí giải thì càng tốt, nhưng họ là những người phải tự lo là chính) để tìm ra cách ứng xử thích hợp của mình. Có lẽ không nên quá lo cho các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp quốc doanh). Mỗi người, mỗi doanh nghiệp sẽ ứng xử theo cách riêng của mình vì lợi ích sống còn của chính mình, không ai có thể lo thay cho họ. Nhà nước cũng vậy, theo sự phân công lao động xã hội, nhà nước nên tập trung làm công việc của mình để thúc đẩy hội nhập và phát triển, nhà nước không thể làm thay khu vực doanh nghiệp và xã hội dân sự.
Theo tôi, cái đáng lo hơn là cái liên quan đến cách ứng xử của các cơ quan và cán bộ nhà nước. Hoạt động của các cơ quan nhà nước càng thân thiện với các doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân (trong và ngoài nước), càng xóa bỏ những rào cản hành chính phi lí, càng minh bạch và càng đơn giản, càng ít tham nhũng, thì nền kinh tế càng hội nhập suôn sẻ hơn. Nói cách khác nhiệm vụ chính là tạo dựng, hoàn thiện môi trường pháp lí, hạ tầng cơ sở, thực thi pháp luật, có chính sách hỗ trợ tạo điều kiện cho những người bị thiệt thòi trong quá trình này thích ứng êm thấm hơn trong quá trình phát triển và hội nhập, là nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Xã hội và nhà nước cần quan tâm đặc biệt đến số đông người dân (nông dân, tiểu thương, những người lao động tự do, người thất nghiệp) có thể bị ảnh hưởng lớn trong quá trình hội nhập tăng tốc gắn với mở cửa thị trường. Hiện nay, đại bộ phận những người này không phải là những người hưởng lương và số đông trong số họ có thu nhập thấp. Hệ thống an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, v.v.) mới chỉ bó hẹp trong số ít người hưởng lương, có quy mô nhỏ bé và tầm bao phủ hẹp. Tôi nghĩ nếu nhà nước tập trung vào những việc chính của mình để thúc đẩy hội nhập, để giảm bớt những thiệt hại có thể xảy ra với số dân cư dễ bị tổn thương, để kích thích sự phát triển của giới kinh doanh thì toàn cầu hóa sẽ mang lại những cơ hội to lớn để phát triển đất nước.
3. Toàn cầu hóa và trách nhiệm của trí thức
Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay (với cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông, với sự phổ biến của Internet, với sự bành trướng sức mạnh của thông tin của biểu tượng, với sự tiến nhanh đến nền kinh tế tri thức) thì vai trò và trách nhiệm của trí thức là rất lớn lao. Trong tiểu luận “Trí thức và Chủ nghĩa xã hội” F. A. Hayek đã phân tích rất sâu sắc về vai trò to lớn của trí thức lên diễn tiến chính trị. Ông gọi trí thức là những người buôn bán đồ cũ về tư tưởng. Ông cho rằng “họ nắm được quyền lực này bằng định hướng dư luận”. “Cái đối với người quan sát đương thời có vẻ như là cuộc đấu tranh của các lợi ích mâu thuẫn nhau, thực ra thường đã được quyết định trước từ lâu trong một cuộc đụng chạm của các tư tưởng được giới hạn ở các giới hẹp” của những trí thức. Theo nghĩa rộng có thể coi tất cả những ai sống bằng nghề gắn với thông tin, tri thức, khoa học đều là trí thức. Như thế ở các nước phát triển trí thức là giai cấp lớn nhất về số lượng và thực sự họ không chỉ có ảnh hưởng lớn đến diễn tiến chính trị mà thực ra họ là những người lãnh đạo xã hội, hơn thế nữa họ là những người thực sự tạo ra phần của cải xã hội lớn nhất. Đấy là sự thực. Và như thế trách nhiệm trên vai giai cấp trí thức là hết sức to lớn. Trong thế giới hội nhập với sự phát triển của truyền thông và Internet, khi cơ hội cho việc phát biểu ý kiến là hết sức dễ dàng, thì người trí thức một mặt phải có lòng dũng cảm nói lên ý kiến của mình, góp sức mình cho sự nghiệp phát triển của đất nước, mặt khác phải thận trọng và cân nhắc về những điều mình nói và viết vì chúng có thể có tác động sâu sắc đến xã hội. Tính trung thực là quan trọng nhất.
* Tham luận tại Hội thảo “WTO - Việt Nam và trách nhiệm của trí thức KH&CN thời kỳ hội nhập quốc tế” ngày 19/1/2007.