Tinh hoa Thăng Long
Có thể nói từ khi trở thành kinh đô của cả nước (1010) cho đến khi triều đại phong kiến nhà Nguyễn kết thúc (1945). Thăng Long- Hà Nội luôn luôn được củng cố và phát triển trên các phương diện kinh tế và văn hoá- xã hội. Ngay cả ở hai thời kỳ 12 năm dưới triều Tây Sơn và gần 150 năm dưới triều Nguyễn, Thăng Long - Hà Nội không còn giữ vị trí là trung tâm chính trị của cả nước, thì nó vẫn phát triển về các mặt kinh tế thương nghiệp, thủ công nghiệp, nhất là về văn hoá. Văn hoá Thăng Long- Hà Nội luôn luôn có sức hấp dẫn hội tụ và toả đi khắp mọi miền của quốc gia Đại Việt.
Kinh tế Thăng Long đời Trần
Trước ngày định đô, miền Thăng Long đã có nhiều người tới ở, làm ăn, buôn bán. Sử cũ cho biết rõ Giao Châu - châu thổ sông Hồng có 55 hương thì Tống Bình - tên cổ của Thăng Long có từ đời Lưu Tống (454-456) đô hộ - chiếm 11 hương. Sử nhà Đường cũng chép dân cư nội, ngoại thành đã là 15 vạn người. Điều đó cho phép ta hình dung tại đây, có thể đã có ít nhiều phường phố xuất hiện.
Từ khi định đô, hoạt động kinh tế ở Thăng Long càng mạnh hơn xưa, các phường phố đựơc mở mang nhiều. Tại Kinh thành thời Lý, Hai bên tả (Đông) và hữu (Tây) thành là khu vực kinh tế, đã chia ra làm 61 phường. Sang thời Trần, Đại Việt sử kýtoàn thư cho biết: “Định các phường về hai bên tả hữu của Kinh thành, bắt chước đời trước chia làm 61 phường” (1). Trong sách dư địa chí viết năm 1435, Nguyễn Trãi cũng nhắc đến các phường nói trên và cho biết các phường ấy vẫn tiếp tục truyền thống cũ làm các nghề thủ công cổ truyền như: làm giấy, dệt vải nhoe và lụa, làm kiệu, áo giáp, nung đá vôi, làm quạt, nhuộm điều v.v…
Thăng Long đời Trần đã là nơi định cư của kiều dân nước ngoài đến xin buôn bán. Sử sách đời Trần còn nhắc vào đời Bảo Phù thứ hai (1274) thời Trần Thánh Tông: có 30 thuyền biển của người Tống đào vòng sang nước ta. Họ đem theo cả vợ con, của cải sang. Vua Trần Thánh Tông cho họ ở tại phường Nhai Tuân. Họ mở phố chợ, bày bán vóc đoạn và thuốc Bắc. Để tránh sự truy xét của quân Nguyên, họ tự xưng là Hồi Kê. Ngoài phường Nhai Tuân, bến Yên Hoa (tức Yên Phụ, Hà Nội ngày nay) cũng là nơi thuyền buôn bán nước ngoài thường xuyên cập bến, đến bán và lấy hàng. Đạo sĩ nhà Tống là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn đến Thăng Long vào năm 1302 đời Trần Anh Tông, triều đình cho ở tại bến này. Như vậy, dọc bờ sông Nhị Hà bây giờ đã có khá nhiều bến thuyền và chợ bến như Yên Hoa, Đông Bộ Đầu, Giang Khẩu, Cơ Xá v.v…ngoài các bến chợ ven sông, còn có các nằm sâu trong các đường phố kinh kỳ như bến Thái Cực ở khoảng phố Hàng Đào, Hàng Ngang và bến thái tổ ở phường Phục Cổ…
Khác với thành thị phong kiến phương Tây, trong sinh hoạt kinh tế chỉ có thương ngiệp và thủ công nghiệp, kinh thành Thăng Long đời Trần có cả nông nghiệp, và nông nghiệp cũng giữ một vị trí quan trọng trong đời sống nhân dân kinh thành. Tại Thăng Long, số lượng nông dân khá đông mà đồng ruộng bao quanh đường phố cũng khá nhiều: ngoài ruộng tư của nông dân và ruộng công của các thôn xóm, kinh thành Thăng Long cũng có những khu ruộng của nhà nước, tức ruộng của vua như ở Cảo Xả (nay là Nhật Cảo, bên cạnh Hồ Tây thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội) năm 1230, định lệ bắt những người bị tội đồ làm “Cảo điềm hoành”, tức nô lệ đưa tới cày ruộng ở Cảo Xã. Mỗi người phải làm ba mẫu, mỗi năm nộp cho Nhà nước 300 thăng lúa, tức mỗi mẫu nộp100 thăng .
Năm 1344, tại kinh thành Thăng Long, lập ty khuyến nông và đặt chức Đồn điền sứ để trông nom các đồn diền của nhà vua. Vùng kinh thành và ngoại vi Thăng Long có các thái ấp của nhà vua ban cho các quan, như vào khoảng sau năm 1390, vua Trần Thuận Tông (1388-1398) đã ban cấp ruộng đất vùng Kẻ Mơ, tức các làng Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động và Bạch Mai cho Vũ Tiết quan Nội hầu Trần Khát Chân. Nguyên do là Trần Khát Chân đã giết được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga, bảo vệ kinh đô Thăng Long, giữ yên được bờ cõi. Nhưng nông nô, nô tỳ làm ruộng thái ấp, ngoài phần nộp thóc cho người được hưởng thái ấp là chủ yếu, còn phải nộp thóc cho nhà vua khá nhiều. Ngoài việc trồng lúa, ở kinh thành Thăng Long cũng có trồng nhiều hoa màu và cây ăn quả. Năm 1362, vua Trần Dụ Tông ra khai khẩn “ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành tỏi, gọi tên phường ấy là Toán Viên (tức Vườn Tỏi)”. Trong thời Trần, nghề nông được triều đình rất chú ý, vì nó là nguồn tô thuế rất lớn của Nhà nước.
Sự phát triển của khu kinh tế - dân cư làm cho bộ mặt thành thị Thăng Long ngày càng rõ nét hơn, dù chỉ là kiểu thành thị nông nghiệp phương Đông.
![]() |
Văn hoá Thăng Long đời Trần
Kinh đô Thăng Long có vinh dự là nơi sinh thành hoặc nuôi dưỡng nhiều thiền sư, nhiều nhà thiền học nổi tiếng:Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang…Thăng Long cũng là nơi chứng kiến sự xuất hiện của nhiều tác phẩm Thiền học nổi tiếng như: Khoá hư lục, Thiền tông chỉ nam, lục thời sám hối khoa nghi…của Trần Thái Tông; Phóngcuồng ca, Thượng sĩ ngự lục…của Tuệ Thái Tông; Thiền tông thiết chủng ngữ lục, Trúc Lâm hậu lục, Thạch Thất my ngữ, Cư trần lạc đạo phú…của Trần Nhân Tông; Tham thiền chỉ yếu, Kim cương đạotràng, Đàlani kinh, Tán Pháp hoa kinh khoa sớ…của Pháp Loa. Người mở đầu triều đại nhà Trần, cũng là người nêu tấm gương sáng cho việc tụ tập, nghiên cứu Thiền học của vương triều nhà Trần là vua Trần Thái tông. Các vị vua anh hùng nối tiếp của nhà Trần, mà tiêu biểu nhất là Trần Nhân Tông, là những người sùng Phật, nghiên cứu sâu về Thiền học và khai thác các số phận tích cực như: nhập thế, không giáo điều, không kinh viện, không chấp trước, thậm chí có tính chiến đấu vì một mục đích gần với vận mệnh Tổ quốc và lợi ích của nhân dân.
Dưới triều Trần, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, nhưng bên cạnh Phật giáo, Nho giáo vẫn được duy trì và phát triển. Nho giáo có tác dụng lớn trong việc củng cố trật tự gia tộc và trật tự xã hội phong kiến.
Sang thời Trần, do yêu cầu củng cố chế độ phong kiến, bộ máy Nhà nước cần được tăng cường, chế độ khoa cử đã được tổ chức quy củ để thường xuyên đào tạo tầng lớp quan liêu sung vào bộ máy nhà nước, các khoa thi mở tương đối đều đặn.
Năm 1232, Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh (Tiến sĩ), quy định 7 năm thi lại một lần (thực tế không thực hiện được). Số người chia làm Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp. Năm 1246, nhà vua lại chia ra làm tam khôi, tức là Trạng Nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Năm 1256, lại chia ra làm Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên (Thanh hoá trở vào gọi là Trại, trở ra thì gọi là Kinh), đến năm 1275 thì hợp làm một. Năm 1304, Trần Anh Tông đặt thêm Hoàng Giáp, người đỗ đầu Đệ nhị giáp (sau này, đời Lê và đời Nguyễn, tất cả những người đỗ Đệ nhị giáp đều gọi là Hoàng giáp). Năm 1374, Trần Dụê Tông mới mở khoa thi tiến sĩ, nhưng cho đến đời Lê, tên Tiến sĩ mới thay tên Thái học sinh. Đáng tiếc sử cũ không ghi chép đầy đủ các khoa thi được tổ chức dưới hai triều đại Lý và Trần. Năm 1236, Trần Thái Tông lập Quốc tử viện, cho con em các văn thần vào học. Năm 1253, lập thêm Quốc học viện, trong đó có tượng Chu Công, Khổng Tử và thất thập nhị hiền. Nho sĩ được vào Quốc tử viện học Ngũ kinh, Tứ thư. Ngoài những trường do nhà nước mở tại kinh đô Thăng Long, còn có nhưng trường như của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc mà Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi từng là học trò ở đây, trường của Chu Văn An đã đào tạo được những danh nho như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh.
Việc ghi chép lịch sử nước ta có từ thời Lý, nhưng do nhiều nguyên nhân, các bộ sử ký đời Lý từ lâu đã mất và thất truyền. Hiện nay ta chỉ biết được quyển lịch sử viết vào đời Lý, là cuốn Sử kýcủa Đỗ Thiện. Sách này hiện không còn, chúng ta chỉ biết được một vài đoạn trong Việt điện u linh tập và LĩnhNamchích quái.
Đến đời Trần việc ghi chép sử được chú trọng hơn và được tổ chức chu đáo. Tại Kinh đô Thăng Long, Quốc sử viện được thành lập. Trần Tấn soạn sách Việt chí. Trần Tấn, nguyên làm chức Tả làng, sau làm chức Hàn trường đời Trần Thái Tông(1225-1258). Nhưng bộ thông sử đầu tiên của dân tộc là do nhà sư học nổi tiếng Lê văn Hưu biên soạn. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng riêng năm Nhâm Thân(1272), Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc tử viện Giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong ĐạiViệt sử kýtừ Triệu Vũ đế (207 tr.CN - 136 tr.CN) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), gồm 30 quyển dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi” (4)Đại Việt sử kýlà một bộ biên niên, cho đến nay không còn nguyên vẹn nữa. Bóng dáng của nó chỉ thấy trong 8 quyển đầu bộ Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên.
Vào cuội thời Trần, còn có bộ Đại việt sử lược(tức Việt sử học) tác giả khuyết danh, soạn vào năm Đinh Tỵ, niên hiệu Xương Phù năm đầu(1377) đời Trần Phế Đế(1377-1388). Đại Việt sử họccũng chép từ Triệu Đà đến Lý Chiêu Hoàng, nên ta có thể nghĩ sách này là do một tác giả cuối đời Trần chép tóm lược lại Đại Việt Sử kýcủa Lê Văn Hưu, nên mới lấy nhan đề Đại Việt sử lược. Cũng vào cuối thời Trần, Hồ Tông Thốc có soạn Việt sử cương mụcvà ViệtNamthế chí, cả hai bộ sử này đều không còn.
Đời Trần còn có một số sách thực lục như Trùng Hưng thực lục, 2 quyển do Trần Nhân Tông soạn, chép công tích các tướng sĩ trong kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên và Thực lụccủa Nguyễn Trung ngạn chép việc Trần Minh Tông đánh Ai Lao.
Khoa học quân sự đời Trần cũng khá phát triển với các tác phẩm của Trần Quốc Tuấn như Vạn kiếptông bí truyền thưvà Binh gia yếu lược(hay Binh thư yếu lược). Mặc dù các tác phẩm này không còn nữa nhưng những ý kiến về quân sự học của Trần Quốc Tuấn được ghi trong các bộ sử cũ, cho thấy ông không chỉ là một nhà quân sự lớn mà còn là một nhà chính trị lớn. Đó là một vĩ nhân có tài kinh bang tế thế.
Thăng Long đời Trần là nơi sinh ra và hội tụ nhiều nhà văn hoá lớn của đất nước, mà tài năng và những công trình nghiên cứu, đã góp phần làm phong phú và rực rỡ thêm đời sống văn hoá của Kinh thành. Đó là Nguyễn Thiên (tức Hàn Thuyên), Nguyễn Sĩ Cố làm thơ phú bằng chữ Nôm, đặt cơ sở cho sự ra đời của nền văn học Tiếng Việt. Đó là những bậc anh hùng tràn đầy tính cách nghệ sĩ như: TrầnThái Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Lê quát. Họ là những tác giả tiêu biểu của nền văn học yêu nước đầy khí phách anh hùng đời Trần.
Trần Nhật Duật là một vị tướng - nghệ sĩ biết nhiều tiếng nước ngoài, say mê âm nhạc, nghệ thuật, là tác giả của nhiều khúc nhạc, điệu múa…Trần Cụ là nhà thể thao - nghệ sĩ nổi tiếng về đá cầu, lại giỏi đánh đàn, bắn nỏ.
Trong số những nhà văn hoá kiệt xuất của Thăng Long đời Trần, nổi lên tấm gương sáng ngời của một trí thức nho học. Đó là Chu Văn An (1292-1370) - một nhà giáo dục lớn, một người thầy mẫu mực, đạo cao đức trọng, rất cương trực và tiết tháo. Sau khi Chu Văn An qua đời, triều đình đã đưa bài vị của ông phối thờ trong Văn miếu Kinh đô Thăng Long .
Thăng Long là trung tâm văn hoá - giáp dục của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ. Khu đền thiêng văn hoá lớn của dân tộc: khu Văn miếu - Quốc tử giám được khởi công xây dựng từ đời Lý đến triều Trần ngày một được nâng cấp. Nơi đây tụ hội văn mạch, văn phong của đất nước. Nơi đào tạo nhân tài và các bậc anh tuấn cho mọi miền Tổ quốc.
Có thể nói bắt đầu từ đời Lý trở đi, tại mảnh đất Kinh đô này, dần dần hình thành nên nho phong sĩ khí Thăng Long, thì trong khoảng 175 năm dưới triều Trần, cái nho phong sĩ khí ấy đã định hình rõ nét. Con người Thăng Long tài hoa mà tinh tế, suốt đời lao vào con đường truy tìm cái đẹp của văn hoá, nghệ thuật mà ít chú tới đời sống văn hoá vật chất. Họ cũng ít chú ý đến địa vị xã hội mà lấy “thư hoa chân ái” (5) (sách và hoa làm điều say mê đích thực) làm lẽ sống.
Vậy diện của Thăng Long dưới thời đại hào khí Đông A, hay nói khác đi hào khí Thăng Long là gì vào đời Trần? Có thể tóm tắt trong vài từ, đó là một Thăng Long văn trị thì rực rỡ và võ công thật oanh liệt.
__________________
(1)( 2): Đại Việt sử ký toàn thư. H.1998, tập II, trang 12.
(3): Bảy khoa triều Lý vào các năm 1075, 1086, 1152, 1165, 1185, 1193 và 1195 (theo Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm)
(4): Mười hai khoa thi triều Trần vào các năm: 1232, 1239, 1246, 1247, 1256, 1266, 1274, 1275, 1304, 1373, 1384 và 1393. ( theo các nhà khoa bảng ViệtNam của Ngô Đức Thọ)
(5) Toàn thư. Sđd, tr. 38.
Nguồn: Xưa và Nay - Số 244 tháng 9/2005








