Tiểu albumin vi lượng
Albumin là loại protein chủ yếu trong huyết tương người, nồng độ 3,4-4,7g/dl, chiếm 60% khối lượng protein huyết tương. Gan sản xuất 12 gam albumin mỗi ngày, phân bố 40% trong huyết tương, 60% trong dịch ngoại bào. Albumin có chức năng duy trì áp lực keo huyết tương, gắn kết và vận chuyển các chất acid béo tự do, Ca++, các thuốc sulfonamid, dicumarol, aspirin…
Ở người bình thường, albumin không tìm thấy trong nước tiểu hoặc rất ít (dưới 30mg/ngày hoặc dưới 20mg/lít nước tiểu).
Tiểu albumin vi lượng xảy ra do các nguyên nhân: vận động nặng, ăn nhiều đạm, sốt cao, động kinh, suy tim xung huyết, tiểu máu, nhiễm trùng tiểu, tăng huyết áp chưa kiểm soát được, độ pH nước tiểu trên 8, suy thận mạn và biến chứng thận do đái tháo đường, do tăng huyết áp.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, số bệnh nhân bị đái tháo đường tại Đông Nam Á vào năm 2000 là 35 triệu người, ước đoán đến năm 2025 con số này sẽ lên đến 80 triệu. Hiện nay, khu vực Đông Nam Á được xem là có tốc độ bệnh đái tháo đường tăng nhanh nhất thế giới. Tại Việt Nam , theo Diabètes Atlas 2003, tỷ lệ bệnh này là 1% dân số.
![]() |
Các chương trình nghiên cứu khoa học chứng minh: tiêu albumin vi lượng là dấu hiệu sớm nhất cho biết bắt đầu có tổn thương thận trên những bệnh nhân đái tháo đường. Phát hiện qua xét nghiệm nước tiểu: 24 giờ lượng albumin là 30-300mg hoặc 20-200mg albumin/1 lít nước tiểu.
Đồng thời, albumin niệu vi lượng còn là yếu tố tiên đoán nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tỷ lệ tử vong do tim mạch, tỷ lệ loét chân, bệnh lý võng mạc và bệnh lý thần kinh cao hơn so với người bệnh đái tháo đường không có albumin niệu vi lượng.
![]() |
Một nghiên cứu thực hiện tại 10 nước Châu Á, trên 6.801 bệnh nhân đái tháo đường týp 2, công bố năm 2004 cho biết: 41,1% có albumin niệu vi lượng.
Nghiên cứu tại Việt Nam trên 304 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 cho thấy tỷ lệ này là 46%, bệnh nhân có albumin niệu đại lượng (nồng độ albumin trong nước tiểu trên 300mg trong 24 giờ hoặc trên 200mg trong 1 lít) là 26,6%. Mặc dù đã được điều trị, nhưng chỉ có 18,3% bệnh nhân duy trì được mức huyết áp dưới 130/80 mmHg để tránh những nguy cơ tim mạch (là mức huyết áp được khuyến cáo), đồng thời việc kiểm soát đường huyết và tình trạng lipit máu chưa đạt mức mong muốn.
Hai nghiên cứu trên đều dẫn đến kết luận: tỷ lệ mắc albumin niệu trên bệnh nhân đái tháo đường túp 2 rất cao, cần tích cực phát hiện và điều trị sớm để làm chậm lại tiến trình dẫn đến suy thận ở những bệnh này.
Theo The New England Journal of Midicine, chiến lược điều trị bệnh lý thận trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 là phải can thiệp vào nhiều yếu tố: điều trị giảm đạm niệu với thuốc đối kháng thụ thể angiotensin 3, kiểm soát đường huyết, ổn định huyết áp, điều chỉnh rối loạn chuyển hoá lipit, dùng thuốc chống kết tụ tiểu cầu, theo dõi các biến chứng khác: mắt, thần kinh, mạch máu ngoại biên; bệnh nhân chú ý thực hiện chế độ ăn kiêng và ngưng hút thuốc.
Nguồn: Thuốc và sức khỏe, số 294,15/10/2005









