Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 06/05/2010 00:08 (GMT+7)

Tiến tới xây dựng đường bê tông xi măng cùng hào kỹ thuật cho đô thị để hạn chế tác hại của biến đổi khí hậu

Kể từ thời Pháp thuộc đến nay, đường bộ nước ta đã trải qua trên 100 năm từ giai đoạn phát triển các loại đường: đường đất nện, đường rải đá dăm, đường đá dăm có tưới nước và lu lèn (đường đá dăm - nước), đường đá dăm cấp phối, đường đá dăm có tưới nhựa (bán thâm nhập) , đường thâm nhập nhựa, đường bê tông nhựa ( BTN) hay đường bê tông át phan, đường BTN kèm nhiều lớp thảm… Đường BTN còn gọi là đường mềm. Trong đó, thành phần liên kết và chất kết dính dẻo chủ yếu là các loại nhựa đường: loại đặc nóng hoặc có phẩm cấp cao nhập khẩu, hay các loại được chứa sẵn trong thùng phuy. Ngoài ra, còn có loại nhựa đường lỏng MC, loại nhũ tương nhựa đường, loại nhựa pôlime đặc chủng cao cấp …Ngày nay, đường BTN vẫn được cải tiến không ngừng, còn dùng phổ biến ở các nước phát triển và đang phát triển.

Tuy nhiên, xu hướng sử dụng đường bê tông xi măng (BTXM), còn gọi là đường cứng đang phát triển nhanh trên toàn cầu do yêu cầu vận tải cao và do biến đổi khí hậu (BĐKH). Thực tế cho thấy BĐKH đã hoành hành kể từ thập niên 90 của TK XX đến nay. Đặc biệt, BĐKH làm cho thời tiết thay đổi thất thường, khắc nghiệt nhiều hơn, gây ra nhiều thiên tai bão lốc, lũ lụt khi mưa lớn kéo dài trên diện rộng, cùng hạn hán …dễ phá hoại đường BTN.

Nước ta là nước nhiệt đới gió mùa có chế độ thuỷ – nhiệt (độ ẩm- nhiệtđộ) khá cao. Hơn nữa, Việt Nam có bờ biển dài 3.260km và lắm sông – kênh – rạch có tổng độ dài 22 vạn km nên ảnh hưởng của hơi nước, nhất là hơi nước mặn của biển trải suốt chiều dài đất nước làm chocác công trình đường sá mau hư hỏng, sớm xuống cấp. Tuổi thọ trung bình của đường BTN vào khoảng từ 10 – 20 năm. Qua thực tiễn sử dụng đường BTN, nhiều chuyên gia đường bộ cho rằng trong hoàn cảnhthời tiết nước ta, tuổi thọ này đã giảm đi từ 4 – 6 năm tuỳ từng chế độ thuỷ – nhiệt theo địa lý từng nơi, từng vùng. Chưa nói đến sự phổ biến chậm trễ bảo dưỡng, duy tu đường không kịp đã làm chotuổi thọ đường bị rút ngắn nhanh hơn nữa. Thực tế, ở những nơi bị ngập lụt, đường BTN bị xuống cấp nhanh đến mức không ngờ, nhất là ở Quốc lộ 1 miền Trung, sau trận lũ lịch sử năm 1999, đã cho thấyrõ.

Trong khi đó, đường BTXM có tuổi thọ trung bình từ 30 – 40 năm, chịu được lưu lượng xe lưu thông khá lớn thông qua, đặc biệt là chịu đựơc các xe tải hạng nặng (xe container, xe siêu trường siêu trọng …). Đầu tư ban đầu mặt đường BTXM thường lớn hơn BTN từ 1,3 – 1,5 lần. Tuy nhiên, nếu quy đổi ra thì ít phải duy tu mặt đường nên rẻ hơn từ 20 - 25 % so với đầu tư mặt đường BTN.

Trước đây ở Hà Nội, trong quá trình xây dựng Lăng Hồ Chí Minh, đã XD hoàn chỉnh đường BTXM cao cấp trên đại lộ Hùng Vương. Sau này, đã làm thí điểm một số đoạn đường BTXM ở hai đầu cầu Chương Dương. Tiếp đó, triển khai một số đoạn đã từng bị ngập lụt trên QL 2, đã XD được trên 100 km đường BTXM trên QL1. Dăm năm qua, đã XD được trên đường Hồ Chí Minh khoảng trên 400km đường BTXM ở những nơi hay có lũ băng tràn. Trong hơn 15 năm qua, đã vận động nhân dân XD được hệ thống đường BTXM nhỏ cấp thấp toả khắp nông thôn ở Đồng bằng Bắc Bộ. Hiện một số đường nông thôn ở Trung Bộ và Nam Bộ đã và đang bước đầu khởi sắc bê tông hoá. Đến nay, theo thống kê quy đổi có thể đạt gần 1200 km đường BTXM.

Nói về đường, ta thường hiểu chung là bao giờ cũng phải kèm có cùng hệ thống thoát nước cống rãnh trong thiết kế và thi công. Đây là hạng mục nhất thiết phải có vì nước là: “ kẻ thù của đường sá” mà bất cứ dự án làm đường nào cũng phải quan tâm đến hệ thống này. Tuy nhiên, thực tế do BĐKH, mật độ mưa đã dồn dập với cường độ cao tạo ra lượng nước rất lớn nên hầu hết các dự án làm đường ở nước ta đã không lường tính toán đến thuỷ diện thoát nước. Hệ thống cống rãnh thường không phù hợp để đáp ứng kịp thoát nước. Vô tình việc này đã gây ra úng ngập cục bộ đây đó đáng tiếc ở đường trường cũng như ở đô thị.

Phạm vi bài viết này, chúng tôi không đề cập đến hệ thống thoát nước và cấp nước trong vấn đề hào kỹ thuật (HKT). Ở đây, chúng tôi giới hạn chỉ đề cập đến HKT được làm riêng hoặc làm chung của nhiều chủ dự án như: chôn đặt đường điện ngầm, đường dây thông tin liên lạc, cáp quang … đi chìm thường nằm dọc theo vỉa hè phố xá hoặc nằm dọc theo dải phân cách của đường cần có.

Ở các đô thị, nhất là các đô thị lớn, tình trạng đào bới đường BTN để làm hệ thống cống rãnh thoát nước, cấp nước, chôn cáp quang ngầm, hạ ngầm tuyến điện lực… vẫn còn phổ biến. Để hạn chế tình trạng đào bới này, theo xu hướng làm đường BTXM mới thay thế đường BTN ở đô thị, thì nên đặt ra điều kiện tiên quyết phải làm HKT tuỳ tình hình đường phố mà triển khai trước, sau cho phù hợp.

Quy hoạch tổng thể Hà Nội mới còn chưa thật ổn định trong khi nhiều công sở, trường học, bệnh viện, nhà xưởng, xí nghiệp, nhà máy.. còn chưa được triệt để di dời theo chủ trương và quy định của Thành phố thì việc xây dựng các HKT sẽ còn phải điều chỉnh nhiều. Nếu nơi nào ở đô thị không xây dựng HKT thì không nên cho phép làm đường BTXM. Việc làm đường BTXM chỉ được thực hiện ở những nơi đã có sự ổn định trong quy hoạch (tức là quy hoạch hiện tại không đủ đáp ứng với quy hoạch Hà Nội mở rộng). Tuy nhiên, XD đường BTXM có thể thực hiện ở các khu đô thị mới đã có quy hoạch rõ ràng.

Hiện nay nước ta đã sản xuất được gần 35 triệu tấn XM. Dự kiến sẽ lên tới 60 triệu tấn vào năm 2010. Kể từ năm 2010 trở đi, theo dự báo sẽ có lượng XM sản xuất dôi ra đạt tới 5 – 7 triệu tấn. Với lượng dôi này, so với mức tiêu thụ trong nước thì hàng năm theo tính toán sơ bộ có khả năng đáp ứng XD được 300 km đường BTXM có mặt đường rộng 7m. Giải quyết việc tiêu thụ lượng dôi XM lớn này, nên ưu tiên dùng làm đường BTXM nhằm vào các công trình sau : đường cao tốc mới, đường vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, đường vành đai, đường lớn ra vào cửa ngõ đô thị cũ và mới, đường lên cầu trọng yếu … là những đường có lưu lượng thông xe lớn hoặc có xe tải trọng nặng chạy thường xuyên. Nếu làm đường BTXM cho đô thị thì nên ưu tiên trước mắt dành cho đường trục đô thị, có dải phân cách rộng, có vỉa hè rộng đủ làm HKT thiết yếu, tránh sự đào bới tuỳ tiện.

Để nâng cao chất lượng bền vững của đường BTXM chống phá hoại của BĐKH, cần khuyến cáo trong XD đường BTXM về các vấn đề: cấp phối, xi măng, lượng nước dùng, phụ gia, thời tiết thi công, bảo dưỡng…như sau:

- Về cấp phối, chúng ta vẫn đang áp dụng biểu đồ cấp phối lựa chọn theo TCVN 7570: 2006 và TCVN 7572: 2006. Đó là các tiêu chuẩn dùng chung cho BTXM không phải dành riêng cho đường BTXM. Cốt liệu hạt phải sạch, cứng, đạt cường độ lớn hơn 80 Mpa, bền và ổn định chịu hoá học. Việc tính toán cấp phối cho BTXM có yêu cầu đặc biệt khi chọn kích thước hạt cốt liệu lớn nhất. Sau đó, xác định thành phần hạt cốt liệu thô sao cho tối ưu (hạn chế dùng đá hạt dài và dẹt, cát phải đồng đều và sạch). Điều này đã được cụ thể hoá trong: “Tiêu chuẩn thiết kế thành phần và quy trình chế tạo bê tông M 60 – M 80 từ xi măng PC 40 trở lên” của 22 TCN 276 – 01 khi làm đường BTXM có chất lượng cao cấp.

- Về XM, quy định XM Poóc lăng dùng theo TCVN ( kể cả nếu theo tiêuchuẩn Mỹ ASTM C150). Lượng XM dùng tối thiểu là 325 kg/ m 3, lượng XM tối đa là 500kg/ m 3bê tông. (Tham khảo thêm theo TC Nga có quy định các lớp trên của mặt đường BTXM nêndùng XM   P500, lớp dưới dùng P300).

Hoàn cảnh nước ta chưa chủ động sản xuất đại trà XM P500 thì có thể dùng loại PC40 cho lớp trên, đối với lớp dưới có thể dùng PC30 cho đường BTXM có chất lượng cao ở các đường trục chủ lực có đông xe, đường dùng cho xe tải nặng chạy thường xuyên, đường cao tốc.

Một ví dụ cho loại đường BTXM đơn giản, thông thường gồm 2 lớp: lớp móng cát gia cố xi măng (dày khoảng 15 – 20 cm) phía dưới, lớp BTXM trên (dầy 20 - 25 cm) mác 350 trở lên. Thiết kế đường BTXM sẽ căn cứ cụ thể vào địa điểm, địa chất, lượng xe lưu thông , tải trọng xe …

- Về lượng nước dùng cho BTXM, xin lưu ý đặc điểm bê tông mặt đường cần có độ sụt phải rất thấp. Thường độ sụt nhỏ hơn 25mm. Tuy nhiên tuỳ quy định có thể từ 20 – 50 mm. Muốn đạt điều đó, tỉ lệ Nước/XM lớn nhất đối với bê tông tiếp xúc với môi trường khắc nghiệt (nước biển, sunphát…) không được lớn hơn 0, 45.

- Về phụ gia: Tuân theo thiết kế tuỳ loại thường dùng như: chất tăng dẻo, siêu dẻo, phụ gia bơm và chất hạn chế ăn mòn, phụ gia cuốn khí… Không được tuỳ tiện sử dụng phụ gia.

- Về thời tiết trong giai đoạn thi công : chọn thời tiết mát mẻ khô ráo, thường làm về ban đêm (hạn chế thi công khi trời quá nắng nóng gay gắt) cố gắng đảm bảo nhiệt độ dưới 30 0C ngoài trời.

- Về bảo dưỡng: cần giữ ẩm ngay sau khi đổ bê tông. Đảm bảo bảo dưỡng liên tục 7 ngày đêm liền để hạn chế vết nứt.

Mấy thập niên qua, chủ trương của Nhà nước về “kiên cố hoá” kênh mương nội đồng, “cứng hoá” mặt đường nông thôn, thực tế thi công đã đem lại nhiều kết quả tốt. Hiện nay, hai dự án lớn về làm đường BTXM đang được triển khai là: Đường Tuần tra biên giới dự kiến 11.000 km và đường Đông Trường Sơn khoảng 400 km. Chủ trương này là đúng đắn, phù hợp sát sao với hoàn cảnh thực tế nước ta.

Việc thực hiện hai dự án này và các dự án làm đường BTXM tới đây sẽ góp phần quan trọng vào việc hạn chế tác hại của BĐKH khi nước ta là một trong 4 nước chịu nhiều rủi ro BĐKH nhất toàn cầu (theo đánh giá của Liên Hợp Quốc). Hai dự án trên sẽ góp phần quan trọng tạo ra cơ sở phát triển các chuỗi đô thị mới ở vùng ven lân cận biên giới và miền núi Trường Sơn .

Trong tình hình diễn biến phức tạp của BĐKH, chủ trương XD đường BTXM gắn với HKT ở đô thị nên đặt ra sớm. Theo đó, cần có quy định chặt chẽ cụ thể tập trung trong các bản quy hoạch XD đô thị mới để chủ động XD đô thị đồng bộ hài hoà với giao thông và hạ tầng HKT. Tại thời điểm này và tương lai gần, chúng ta chủ động có dồi dào nguồn vật liệu XM và cấp phối đá cát đảm bảo đủ đáp ứng tiêu chí XD nhiều đô thị văn minh, hiện đại phát triển bền vững . Việc này góp phần đắc lực vào việc hạn chế tác hại của BĐKH.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.