"Thủy sản đâu chỉ có con tàu!"
Ngư dân phải được hưởng thành quả xuất khẩu
Khác với ngành may mặc, ngành gỗ phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, thủy sản hoàn toàn dựa vào nguyên liệu trong nước. Tất cả đều do ngư dân làm ra. Vì vậy, họ phải được hưởng thành quả xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được sản phẩm nguyên liệu của ngư dân".
Khi ông Bộ trưởng đặt vấn đề gắn xuất khẩu với xoá đói, giảm nghèo, tại một hội thảo quốc tế, đã có đại biểu nước ngoài không tin. Ông lý giải: “Đường lối đổi mới của ta không chỉ là nhằm hài hoà nền kinh tế, mà luôn luôn đặt mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Ngành nông nghiệp phải đưa kinh tế nông thôn vào. Ngành thuỷ sản phải đưa kinh tế ven biển vào. Vì thế, chúng tôi mới có dự án SAPA đưa thuỷ sản vào miền núi, góp phần xoá đói giảm nghèo đồng bào miền núi”.
Nghề thủy sản không chỉ có thuyền, mà còn có nhà
Tôi đưa ra một thắc mắc: “Hình như bức tranh khai thác thuỷ sản của ta đang có nghịch lý khi nguồn lợi đang cạn kiệt?”.
Bộ trưởng suy tư một thoáng, rồi trả lời: “Người ta đi vào các đối tượng ở các vùng biển đáp ứng được 2 yêu cầu: hạn chế thấp nhất hoặc không làm ảnh hưởng đến tài nguyên, và đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì thế ngư dân đã đánh bắt khác trước đây. Bà con phát triển mạnh nghề chụp mực và nghề cá ngừ đại dương. Hai nghề này trước đây đã có nhưng không nhiều, nay tính mục đích trong đánh cá đã rõ ràng. Trong khi đó, chỉ vận động ngư dân vùng gần bờ chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản là rất khó. Bởi vì ngoài năng lực quản lý còn rất yếu kém, lại có nhiều khó khăn trong xã hội, trong cuộc sống của ngư dân”.
“Vậy là trách nhiệm thuộc về ai? Nếu chỉ thuộc về Bộ Thuỷ sản cũng không thể giải quyết được. Ông có cho rằng cần có một bộ nghề cá không? “Ông Ngọc không vội vã khẳng định nên có một tổ chức như thế nào. Ông nhìn tôi bằng con mắt khẽ cười. Ông đã từng nói với mình về việc nên thành lập Bộ Nghề cá, thay thế Bộ Thuỷ sản. “ Đây là vấn đề vĩ mô vượt quá thẩm quyền của tôi”.
“Vậy là muốn phát triển nghề cá, thì Nhà nước không chỉ có các cơ chế kinh tế vĩ mô, mà còn cần có cả cơ chế xã hội?”, tôi ướm hỏi. Bộ trưởng gật đầu liên tiếp: “Đúng là không phải chỉ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, mà Nhà nước còn phải chăm lo đời sống dân chài, ổn định xã hội làng chài. Hiện nay dân vùng biển rất nghèo, trừ một số tụ điểm lớn ở mấy thành phố Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Bà Rịa - Vũng Tàu. Nên nhớ là số ấy rất nhỏ bé trong tổng số 116 huyện thị ven biển ở 29 tỉnh thành, với 20 triệu dân”.
Ông trầm giọng: "Vừa rồi, sau cơn bão số 9, tôi đi trong đoàn Tổng bí thư thăm mấy xã, tiếp xúc với các hộ ngư dân, tôi mới vỡ ra nhận thức: ngư dân, nghề thuỷ sản không chỉ có con thuyền, mà còn có nhà. Hoá ra, bạc đầu với nghề thuỷ sản, 62-63 tuổi đời rồi, tôi mới thấy vừa mới đây chỉ lo trả nợ của tàu xa bờ, mà không thấy, ít thấy phải lo cái nhà của ngư dân, phải lo những gì động chạm đến cuộc sống thường nhật của ngư dân”.
Thay đổi tư duy mới có hành động đúng
Tôi cố tránh sa đà vào vấn đề xã hội nghề cá, nên đề cập đến một vấn đề thời sự: “Bộ trưởng có lo lắng gì, ngoài các vấn đề chúng ta vừa bàn?”.
Ông Ngọc nói một mạch: “Lo nhất, không phải đến bây giờ mới lo, mà từ 5 năm nay rồi. Đấy là vấn đề liên quan đến dư lượng kháng sinh, ảnh hưởng đến an toàn vệ sinh, đã gây sức ép lớn đến xuất khẩu thuỷ sản. Vấn đề này không dễ xử lý nhanh chóng, vì nghề cá nước ta đi từ sản xuất nhỏ, chỉ trong một thời gian ngắn đã tổ chức thành ngành sản xuất hàng hoá lớn. Ngư dân không hiểu và không xử lý được tồn dư hoá chất trong bảo quản, trong trị bệnh, trong xử lý môi trường. Nếu không làm tốt ở khâu khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, thì đến khâu chế biến không thể khắc phục được”.
“Như thế cần phải làm cho ngư dân có được những kiến thức cần thiết?”. “Không có cách nào khác”, Bộ trưởng khẳng định.
Ông lại băn khoăn nói về vấn đề dân trí: “ Ngư dân của ta vốn chỉ làm nghề theo kiến thức cha truyền con nối, chỉ quen ông sao, ông trăng, quen luồng gió, quen kinh nghiệm vật cố định trên biển để ẩn nấp khi bão tố. Chúng ta đau lòng khi thấy còn có những ngư dân vẫn điểm chỉ thay chữ ký, muốn học cũng khó, vì cứng tuổi, nhất là vì vẫn phải đi biển kiếm sống”.
Ông Ngọc kể: Tháng 6/2000, tôi dự hội chợ triển lãm thuỷ sản ở Saint Petersbourg (Nga). Trong buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Nghề cá Nga, ông nâng cốc chúc “Vì ngư dân!”. Tôi giật mình, vì ta quen chúc triệu tấn, tỉ USD, nên nghe chúc “Vì ngư dân” thì vừa quen, vừa lạ, vừa... xấu hổ? Nếu không có bão số 9, tôi chưa có được thay đổi phương thức làm nghề thuỷ sản. Nhưng từ thay đổi phương thức đến hành động không phải dễ dàng, vì quan trọng nhất là phải thay đổi tư duy. Nếu có Bộ Nghề cá mà không có tư duy nghề cá, thì cũng chẳng thay đổi được gì. Ngư dân cũng vậy, có nơi vẫn khăng khăng ra biển giữa lúc có bão. Chỉ vì một nỗi nếu không ra khơi thì không có gì ăn. Đau lắm chứ".
"Nhưng làm gì để hết nỗi đau lại không thể là trách nhiệm của ngư dân. Dù có Bộ Nghề cá, mà không có sự phối hợp trách nhiệm cộng đồng của các bộ, ngành khác, thì cũng không thể có xã hội nghề cá ấm no, hạnh phúc được”, ông nói.
Cần một thể chế thực thi, một thủ tục chấp nhận được
Thế là câu chuyện của chúng tôi không chỉ dừng ở 3,4 tỉ USD xuất khẩu thuỷ sản, mà có liên quan đến vấn đề tháo gỡ mắc mớ của ngành “bạc biển”.
Khi tôi trở lại vấn đề làm thế nào để tránh được rủi ro cho ngư dân, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc nói: “Bão số 9 làm tôi bừng tỉnh, hiểu sâu sắc phải tổ chức sản xuất gắn với đảm bảo an toàn, càng sát dân lại càng tăng trách nhiệm. Không thể không ra biển, mà phải biết cách sống chung với bão, dù bão liên miên vẫn hoàn thành sản xuất. Vì thế, chúng tôi phân nhóm tàu thành 3 khối. Khối nguy hiểm là những tàu sẽ bị bão uy hiếp thời gian gần, buộc phải rút tàu ra ngay khi có tin bão. Khối đánh bắt xa bờ khác phải tăng cường liên lạc thường xuyên. Khối gần bờ tận dụng thời gian đánh bắt nhiều nhất, kết hợp với đảm bảo an toàn”.
Ông có băn khoăn về vốn của ngư dân không?
Có chứ! Nhiều băn khoăn lắm. Càng nghèo càng không có vốn. Có những tổ hợp tác chung vốn làm ăn, tuy có hiệu quả nhưng vẫn lúng túng, và là muối bỏ biển. Nhiều người nghèo phải sử dụng vốn người giàu để đi đánh bắt, có mặt hay nhưng bị đầu nậu bóc lột nhiều. Vay vốn bình đẳng là chuyện không có, vì ngư dân không có gì để thế chấp. Nợ xa bờ là thế. Còn vay vốn dài hạn thì quả vẫn là ẩn số.
Ông ngừng một lát, như để xâu chuỗi lại những đề án, dự án đã thực hiện, đã thể nghiệm trong ngành thuỷ sản. Giọng ông nhỏ nhẹ mà thanh thoát: “Thật sự người nghèo đành đứng ngoài 2 chương trình xuất khẩu và khai thác xa bờ. Người nghèo chỉ mới tham gia chương trình nuôi trồng thuỷ sản, vì được nhà nước đầu tư một số cơ sở hạ tầng, được vay một phần giống nuôi. Đã có một số hộ thoát nghèo. Nhưng cũng có người phải bán đất, đi làm thuê, gán cả sổ hồng, sổ đỏ.”.
“Đành chịu mãi sao, Bộ trưởng?”. Ông Ngọc không trả lời thẳng vào câu tôi hỏi, mà nói về điều ông tâm dắc đến héo hon: “Xuất khẩu phải thông qua điều tiết vĩ mô để giúp đỡ người nghèo. Còn khai thác xa bờ chỉ là nơi người nghèo làm thuê. Đến bây giờ người nghèo vẫn chưa được đào tạo thoả đáng, chưa gắn được nghề cũ với năng lực hoạt động, chẳng hạn nghề đáy trước đây có ở rất nhiều nơi, nay mất tích ở các sông ĐBSCL. Khó thoát nghèo trong thời gian ngắn, vì qua trình đổi mới bao gồm nhiều quá trình riêng khác nhau, chưa quyện với nhau thành sợi cáp lớn. Riêng đối với ngành thuỷ sản, chúng tôi và cá nhân tôi là Bộ trưởng còn yếu kém, ngày càng nhận ra mình chưa đề xuất được là bao, chưa làm nhạc trưởng. Tôi sợ nhất trống đánh xuôi kèn thổi ngược, vì như vậy là kéo lại bao cấp”.
Ý ông muốn đề cập đến khía cạnh cải cách hành chính?
Đúng thế. Quá trình đổi mới là quá trình phi tập trung hoá, nhưng phải làm mới biết là mình quá quan liêu. Ngư dân cũng là nông dân, đâu chỉ có con thuyền, thửa ruộng, mà còn có căn nhà mái ấm, con cái học hành... Ngư dân không được đào tạo, nhưng lại hiểu biết khá nhiều. Gặp tôi, bà con bàn về giá dầu, về vốn vay, về giá cả, về xây nhà ngư dân tránh được gió bão, về cuộc sống, học hành, thuốc thang... Thật sự là càng đến với dân, tôi mới thấy mình mắc nợ đồng bào nhiều quá. Vì thế, phải làm ngay những việc dân đòi hỏi chính đáng.
Vậy ông có nghĩ ngành thuỷ sản sẽ sáng sủa chí ít đến năm 2020 không?
Ông Ngọc quả quyết: “Tôi rất tin tưởng. Chúng ta có hơn 1 triệu km2 bờ biển rất lớn, nhưng mới khai thác rất nhỏ. Nếu biết chuyển dịch thì ngay vùng cạn kiệt cũng sẽ nuôi trồng biển, cứu nghề cá, tạo khối lượng thực phẩm lớn. Ta đi sau nhưng đang là 1 trong 10 nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới. Vào WTO rồi, tôi tin sẽ cộng hưởng mạnh”.
Rồi ông kết luận: “Phải biết đặt nghề thuỷ sản, nhất là cộng đồng ngư dân vào vị trí xứng đáng, đặc biệt là tăng chất lượng cuộc sống ngư dân. Môi trường sống và sản xuất của ngư dân là biển cả, là mặt tiền của đất nước. Dù có khu công nghiệp, khu đô thị, khu resort nguy nga, đồ sộ như thế nào ở mặt tiền đó, thì vẫn phải gắn với nghề cá, gắn với dân nghề cá, gắn với nguồn tài nguyên biển. Muốn thế, không nên gò ép phải có bộ máy hành chính nào đó, mà vô cùng cần thiết là phải có một thể chế thực thi và một thủ tục chấp nhận được”.
Nguồn: Thuy sản, 25/2/07








