Thuốc chữa nghiện rượu mới camprosate calcium
Ở Mỹ có khoảng 18 triệu người đang có vấn đề liên quan đến nghiện rượu và hàng năm có khoảng hơn 100.000 người bị tử vong vì rượu. Ở nước ta chưa có thống kê chính xác về số người bị nghiện rượu, nhưng hàng ngày đều có những sự cố xảy ra liên quan đến rượu, như tai nạn giao thông và những án mạng do chém giết lẫn nhau. Một vấn đề lớn trong công cuộc chống tệ nạn nghiện rượu là cai nghiện. Hai thuốc chính đã được dùng chữa nghiện rượu là disulfiram (biệt dược Antabute và hiện nay thông dụng là Espéral) và naltrexon (Revia). Cơ chế tác động của disulfiram là ngăn chặn chuyển hoá rượu ở gan chỉ cho rượu chuyển thành acetaldehyl rồi thôi, mà acetydehyl là chất rất độc, không được chuyển hoá tiếp sẽ tích luỹ lại trong cơ thể, làm cho người đã uống thuốc mà còn uống rượu sẽ bị ngộ độc với các biểu hiện: tim đập nhanh, mặt đỏ bừng, ói mửa, đổ mồ hôi, hạ huyết áp, nhức đầu dữ dội… Còn naltrexon là một chất đối kháng opioid đã được dùng làm thuốc chữa ngộ độc ma tuý như thuốc phiện heroin và đã dùng chữa nghiện rượu bởi vì có thể giúp người nghiện giảm uống rượu.
Vào cuối năm 2004, Cơ quan Quản lý Thực phẩm - Dược phẩm Mỹ (FDA) đã cho lưu hành một loại thuốc khác để chữa nghiện rượu, đó là acamprosate calcium (tên biệt dược là Campral). Campral được bào chế dưới dạng viên nén bao tan ở ruột, mỗi viên chứa 300 mg dược chất calcium acetylaminopropan sufonate (tương đương với 300 mg dược chất acamprosate). Cơ chế làm giảm sự uống rượu của thuốc acamprosate hiện nay vẫn chưa được giải thích một cách rõ ràng. Tuy nhiên, thử trên súc vật; acamprosate cho thấy có tương tác với hệ thống dẫn truyền thần kinh gồm các chất axit gamma amino butyric (GABA) và glutamate, tái lập lại sự cân bằng của hệ thống này (người ta ghi nhận khi bị nghiện rượu là có sự mất cân bằng của hệ thống, sự kích thích và ức chế thần kinh không được cân bằng). Súc vật nghiện rượu khi cho dùng acamprosate sẽ ít đòi hỏi việc uống rượu hơn. Acamprosate không có tác dụng chống co giật, chống trầm cảm, giải lo âu như một số thuốc an thần khác. Khác với disulfiram, acamprosate không gây đột tức không gây vật vã, khó chịu khi đang dùng thuốc mà uống rượu, thuốc chỉ làm giảm sự thèm muốn uống rượu.
Khi dùng đường uống, sinh khả dụng của thuốc chỉ vào khoảng 11% và không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Acamprosate không bị chuyển hoá ở gan, vì vậy, không cần giảm liều đối với người bệnh suy gan. Thời gian bán thải của thuốc là 20 – 33 giờ. Thuốc được bài tiết qua nước tiểu với dạng còn nguyên vẹn acamprosate. Với ba cuộc thử nghiệm lâm sàng đầu tiên thử trên 998 bệnh nhân nghiện rượu trong vòng 90 – 360 ngày, acamprosate chứng tỏ hơn hẳn placebo. Chỉ định của thuốc:dùng để cai rượu, đặc biệt khi có sự hỗ trợ tâm lý (tức có sự theo dõi của bác sĩ). Chống chỉ định:dị ứng với acamprosate, suy thận nặng (độ thanh thải creatinin ≤ 30 ml/phút). Cần lưu ý, thuốc không cải thiện được hội chứng “cai rượu” (triệu chứng xảy ra khi người nghiện rượu đột ngột ngưng bỏ rượu). Tác dụng phụ của thuốc: nhức đầu, đau nhức mình mẩy, buồn nôn, chán ăn, tiêu chảy, trầm cảm, mất ngủ… Acamprosate đặc biệt có ích cho người không dùng được naltrexon, thí dụ như người đang điều trị thuốc giảm đau opioid hoặc người cai nghiện đang dùng methadon (vì có thể gây hội chứng cai) hoặc người bị suy gan (naltrexon gây độc cho gan).