Thực trạng ô nhiễm, suy thoái tài nguyên nước của Việt Nam – Một số biện pháp giảm thiểu, khắc phục
Sự phát triển nhanh chóng của quá trình đô thị hóa và công nghiệp dọc hai bờ các dòng sông đã khiến cho một số sông ở Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây đã và đang bị ô nhiễm tới mức trầm trọng, đe doạ sự phát triển bền vững kinh tế xã hội khu vực và của ngay chính các dòng sông, đặc biệt là vùng hạ lưu sông. Nhận định trên là sự khái quát chung cho tình trạng các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông La Ngà ở phía Nam; các sông như sông Cầu, sông Nhuệ-Đáy trên hệ thống sông Hồng ở phía Bắc. Tình trạng trên xét về cơ bản là do các dòng sông phải tiếp nhận là quá tải các nguồn nước thải sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp chưa được xử lý đúng yêu cầu và các tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi xả vào nguồn tiếp nhận.
Tình trạng khai thác bừa bãi vật liệu xây dựng như cát sỏi từ lòng sông và bãi sông, khai thác thực vật ven sông xảy ra tương đối phổ biến và không kiểm soát nổi, dẫn đến tình trạng xói lở lòng và bờ sông đã xảy ra ở nhiều nơi, ảnh hưởng tới lòng dẫn, thậm chí gây những thay đổi đáng kể về chế độ thuỷ lợi, trao đổi nước mặt và nước ngầm của sông ngòi. Ví dụ, trên sông Lục Nam thuộc địa bàn tỉnh Bắc Giang một nhánh sông của hệ thống sông Thái Bình nhiều tàu thuyền khai thác cát không có giấy phép với lượng cát sỏi khai thác lên đến hàng trăm m3 mỗi ngày đã gây sạt lở bờ sông, làm hàng trăm ha đất thổ cư và đất canh tác màu mỡ ven sông bị lũ cuốn trôi gây hậu quả nghiêm trọng cho đời sống nhân dân vùng ven sông. Một số nơi, tình trạng lấn chiếm lòng và bãi sông đang làm thu nhỏ dần lòng dẫn; việc nuôi cá lồng, hoặc thả cá loại bè trồng rau; xây dựng các bến bãi ven sông…đang làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu thoát của dòng nước, làm chậm, thậm chí giảm đáng kể quá trình làm sạch tự nhiên của dòng chảy, làm tăng nguy cơ tù đọng nước thải, nước mưa dẫn tới trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm môi trường nước ở nhiều nơi như trên sông Nhuệ đoạn sau nhập lưu với sông Tô Lịch… Cũng theo báo cáo tại kỳ họp thứ 8 Hội đồng quốc gia tài nguyên nước, tỷ lệ phần trăm các đoạn sông bị cản trở lưu thông dòng chảy trên sông Hồng chiếm tới 71%, sông Thạch Hãn 77,5%, sông Ba 66%.
Việc khai thác và sử dụng nước ngầm quá mức, không đúng quy trình thậm chí thiếu quy hoạch đã khiến cho mực nước ngầm tại một số khu vựcb ị sụt giảm và ô nhiễm xảy ra với nhiều mức độ khác nhau ở nhiều nơi, có nơi bị ô nhiễm xuyên tầng. Việc quy hoạch và thiết kế các bãi chôn lấp rác thải, chất thải không đúng quy cách cũng gây ảnh hưởng xấu cho môi trường nước ngầm của một số khu vực, đặc biệt là các huyện ngoại thành Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số đô thị lớn. Ô nhiễm nước ngầm tự nhiên trong đó có ô nhiễm do Asen là một trong những sự cố môi trường nghiêm trọng trên thế giới cũng như ở Việt Nam . Tại Việt Nam, kết quả khảo sát ban đầu của Dự án điều tra đánh giá tình hình ô nhiễm Arsenic trong nguồn nước dưới đất đã phát hiện dấu hiệu nước ngầm bị nhiễm Asen tại nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng sông Hồng.
Tại nhiều lưu vực sông, đặc biệt là khu vực hạ lưu, tình trạng suy giảm nguồn nước dẫn tới thiếu nước, khan hiếm nước, thậm chí không đủ nước cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất đang diễn ra ngày một thường xuyên hơn, trên phạm vi rộng lớn hơn và ngày càng nghiêm trọng hơn. Tình trạng này có thể gặp ở một số khu vực thuộc sông Hương, Thu Bồn, sông Kôn, sông Ba, Đồng Nai-Sài Gòn, Sê San, Srepok,… Nhiều lưu vực sông, do tác động của tình trạng khan hiếm nước cùng với ô nhiễm và xâm nhập mặn đã khiến cho việc cấp nước sinh hoạt và sản xuất gặp khó khăn như tại lưu vực sông Đồng Nai-Sài Gòn, Hương, Ba, Cửu Long.
![]() |
Thực tế hiển nhiên là các vấn đề liên quan đến tài nguyên nước đã và đang làm cho các biện pháp quản lý tài nguyên nước trước đây trở nên thiếu hiệu quả. Điều đó buộc chúng ta phải có những thay đổi về quản lý phù hợp với tình hình, nói cách khác là đã đến lúc phải quản lý nhu cầu sử dụng nước thay vì việc tìm cách đáp ứng nhu cầu như vẫn làm trước đây và chỉ có như thế tài nguyên nước mới được quản lý hiệu quả, khai thác sử dụng hợp lý và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, công tác quản lý tài nguyên nước trong giai đoạn hiện nay (thời kỳ quá độ hướng tới quản lý tổng hợp tài nguyên nước) trong điều kiện nhiều nguồn nước, dòng sông đã và đang bị ô nhiễm nặng nề đòi hỏi chúng ta phải triển khai mạnh mẽ các biện pháp phát triển nguồn nước, tích cực, chủ động xử lý, phục hồi những nguồn nước, đoạn sông bị ô nhiễm, khắc phục hậu quả do nước gây ra, bảo vệ và duy trì sự lành mạnh của những dòng sông, nguồn nước chưa bị ô nhiễm, suy thoái. Cụ thể là:
Tăng cường xây dựng các quy định, chính sách, cơ chế nhằm thúc đẩy việc khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên nước; phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.
Đẩy mạnh công cụ cấp phép khai thác, sử dụng nước, đặc biệt là giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sau cấp phép nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động liên quan có nguy cơ gây ô nhiêm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Thúc đẩy quá trình tham gia và hỗ trợ của cộng đồng dân cư tại những khu vực có nguồn nước bị ô nhiễm trong việc giám sát, phát hiện kịp thời các cơ sở gây ô nhiễm nguồn nước. Có chế tài đủ mạnh để xử lý và kiên quyết xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nguồn nước.
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính thích hợp trong bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục ô nhiễm tài nguyên nước trên nguyên tắc: tổ chức, cá nhân được hưởng lợi nhiều từ nguồn nước có trách nhiệm đóng góp nhiều; tổ chức cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái phải chịu trách nhiệm phục hồi các nguồn nước, đoạn sông bị ô nhiễm. Đồng thời có chính sách khuyển khích đầu tư, cho vay với lãi suất ưu đãi với các hoạt động nhằm xử lý nước thải, bảo vệ môi trường nước và hệ sinh thái, phòng chống khắc phục các tác hại do nước gây ra.
Xác định mục tiêu chất lượng nước, phân vùng sử dụng và bảo vệ nguồn nước và duy trì dòng chảy tối thiểu nhằm đảm bảo điều kiện tự nhiên, môi trường và hệ sinh thái thủy sinh.
Xây dựng các quy định về điều hoà, phân bổ và chia sẻ nguồn nước, cụ thể là xây dựng quy hoạch phân bổ tài nguyên nước; xác định ngưỡng giới hạn khai thác cho các dòng sông, tầng chứa nước.
Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đặc biệt là cam kết, thoả thuận của đại diện nhân dân các vùng có liên quan trong khai thác, sử dụng các dòng sông và nguồn nước kể cả các hồ chứa thủy điện, thuỷ lợi.
Kinh nghiệm thực tế của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy sự thành bại của công tác bảo vệ tài nguyên nước, khắc phục tác hại của nước gây ra không chỉ yêu cầu sự nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước, các cơ quan thực thi pháp luật mà cần có quyết tâm chung của cộng đồng, của toàn xã hội, trong đó người dân là yếu tố phát triển tài nguyên nước. Vì vậy, nâng cao nhận thức cộng đồng, giúp cộng đồng hiểu rõ và thực hiện trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước sẽ luôn là giải pháp song hành với bất kỳ giảp pháp kỹ thuật nào.