Thử tìm nguyên nhân và giải pháp chấn hưng nền giáo dục Việt Nam
Nguyên nhân yếu kém
Ngành GD & ĐT chậm đổi mới, chưa theo kịp đổi mới kinh tế - xã hội
Nguyên nhân thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao là do công tác đào tạo chậm đổi mới. Do thiếu quy hoạch hệ thống đào tạo nghề nên việc tăng /giảm ngành nghề đào tạo còn nặng tính tự phát, chủ quan hoặc duy ý chí. Cơ cấu đào tạo nghề mất cân đối, không bắt kịp nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các “sản phẩm” của GD & ĐT khi đi vào cuộc sống thiếu kỹ năng, yếu về trình độ chuyên môn.
Trong Hội thảo: Thực trạng và giải pháp về nguồn nhân lực cao cấp cho doanh nghiệp (tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh, tháng 10.2006), nhiều ý kiến đã phân tích những nguyên nhân dẫn đến yếu kém của nguồn nhân lực được đào tạo ở Việt Nam . ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI), nhìn nhận: “Chúng ta hiểu rất rõ chất lượng nguồn nhân lực đang và sẽ là thách thức căn bản, dài hạn và gay gắt nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh. Trong khi đó, hệ thống GD & ĐT vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho quá trình chuyển đổi này”. ông Đoàn Văn Kiển, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam lý giải: “Giáo trình đại học tuy in mới nhưng nội dung cũ mấy chục năm, lạc hậu rất nhiều so với thực tế, không cập nhật được thông tin, công nghệ mới. Thế nhưng, nếu doanh nghiệp chủ động cử người đi đào tạo ở nước ngoài với chi phí cao thì lại gặp khó khăn từ cơ quan quản lý nhà nước”.
Theo các chuyên gia kinh tế và các nhà xã hội học, sự thiếu hụt lao động chất xám ở nước ta do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân đầu tiên là do tình hình kinh tế - xã hội nước ta phát triển nhanh, nhất là từ sau đổi mới, trong khi đó hệ thống GD & ĐT lại đổi mới quá chậm. Nền kinh tế đất nước đã vận hành theo quy luật cung - cầu, cạnh tranh trong một sân chơi chung với những luật chơi bắt buộc. Thế nhưng, hệ thống GD & ĐT vẫn còn theo lối chủ quan, duy ý chí, lạc hậu, không theo sát, theo kịp với thực tiễn.
Chương trình học “ôm đồm”, không dành quyền lựa chọn cho người học
Thời gian học đại học 4 năm ở Việt Nam là 2.183 giờ (ở Mỹ là 1.380 giờ). Ngoài ra, có thể nhận thấy, chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam không hẳn là nghề, cũng không hẳn là đào tạo để có kiến thức sâu và tính sáng tạo. Ví dụ, Chương trình đào tạo đại học kinh tế ở Việt Nam (Đại học kinh tế Tp Hồ Chí Minh) đòi hỏi 1.451 giờ học kinh tế (ở Mỹ chỉ 480 giờ). Sinh viên Việt Nam trong 4 năm phải học gần như tất cả mọi thứ về kinh tế mà nhà trường có thể nghĩ ra, nên không có khả năng hoặc thời gian đi sâu vào bất cứ vấn đề gì. Sự phân chia chi li các lớp học (chuyên ngành) thì lại có vẻ thực dụng như dạy nghề.
Chương trình đại học ở Việt Nam không trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản và toàn diện về khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn, văn chương, nghệ thuật, không trang bị phương pháp nghiên cứu và viết luận văn. Ngoài ra, ở bậc đại học của Việt Nam , tất cả các môn có tính bắt buộc, sinh viên không có quyền tự chọn (ở Mỹ có quyền tự chọn đến 1/3 thời gian học, dù học bất cứ ngành nào). Việc được quyền tự chọn là rất quan trọng để sinh viên mở mang kiến thức về nhiều ngành học khác nhau, giúp hợp tác nghiên cứu liên ngành, phân tích và nhìn nhận vấn đề không bị bó hẹp vào chuyên môn của mình.
Chương trình GD &ĐT thiếu sáng tạo, nhiều khi còn đồng nhất giáo dục với tuyên truyền
Đã qua nhiều lần hô hào cải cách, nhưng nội dung lẫn phương pháp đào tạo của Việt Nam vẫn còn quá nhiều điều bất cập, không phát huy được tính độc lập suy nghĩ và sáng tạo của người học. Trong quá khứ, thời kháng chiến nói giáo dục tuyên truyền để huy động đông đảo nhân dân tham gia cách mạng là tối cần thiết. Đến nay, trong giai đoạn hội nhập, nếu tiếp tục có tư duy lẫn lộn giữa giáo dục và tuyên truyền thì sớm muộn sẽ đi đến ngõ cụt của tri thức, đến tụt hậu của tư duy. Bởi vì, tuyên truyền mang tính tình thế, hướng đối tượng đi theo ý muốn của mình; còn giáo dục đúng nghĩa, cần mang tính nhân văn, lâu dài và phổ quát, lấy con người làm gốc, tạo điều kiện để đối tượng có hiểu biết, giúp họ hành sự như một thực thể độc lập, đủ khả năng thích ứng với sự thay đổi của bối cảnh, cuộc sống, sự việc. Đây là một phẩm chất quan trọng bậc nhất của nguồn nhân lực trong cuộc cạnh tranh trong xu thế hội nhập.
Giáo dục luôn đòi hỏi phát huy khả năng trao đổi, thảo luận, tinh thần phê phán phản biện. Như vậy, người học mới có óc sáng tạo, tự mình phát hiện cái mới, cái hay rồi hành xử theo điều kiện cụ thể. Không độc lập trong suy nghĩ thì không thể cải tiến công việc, cải tạo cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của phát triển bền vững. Có một ví dụ đáng quan tâm về nhược điểm thiếu tinh thần tự lập, sáng tạo của nhân lực được đào tạo của Việt Nam: Có lần, một Công ty phần mềm tính toán thiết kế cơ học hàng không ở Bỉ chuẩn bị mở một chi nhánh tại Việt Nam . Công ty đã thuê phòng ốc tại Tp Hồ Chí Minh. Đến giai đoạn gửi cộng tác viên sang Bỉ thực tập, sau khi thẩm tra, họ quyết định ngừng dự án mở chi nhánh. Một trong những lý do là vì các sinh viên Việt Nam không có tinh thần tự lập, sáng tạo; học thì giỏi, nhưng trước nghịch cảnh lại không có tư duy sáng tạo, điều tiết công việc. Người Bỉ trong đợt kiểm tra đó đã cố ý đưa ra những bài toán mà đầu đề có chỗ sai. Sinh viên Bỉ sửa cái sai đó, trong khi sinh viên Việt Nam vẫn giữ cái sai đó và dĩ nhiên là giải sai. Đó chính là sự khác biệt.
Về giáo trình, các trường vẫn cứng nhắc tuân theo giáo trình khung của Bộ GD &ĐT. Đối với một ngành chuyên môn kỹ thuật sâu như công nghệ thông tin, nội dung chính trị - xã hội vẫn chiếm tới gần 30% đơn vị học trình đào tạo. Vì vậy các trường đại học có rất ít khoảng trống để bắt kịp sự thay đổi công nghệ. Theo báo cáo Công nghệ thông tin - Truyền thông toàn cầu năm 2005 của Diễn đàn kinh tế thế giới, chất lượng chương trình đào tạo công nghệ thông tin của Việt Nam đứng thứ 9 trong khu vực ASEAN +3 và đứng thứ 76 trong số 82 quốc gia do tổ chức này khảo sát.
Hệ thống đào tạo chạy theo bằng cấp, hư danh
Tư duy giáo dục hiện nay còn chạy theo thành tích, hư danh, theo số lượng mà không quan tâm đúng mức đến chất lượng. Chính tư duy có “tính phong trào“ này đã dẫn đến tâm lý sính đại học, coi thường cao đẳng, sính bằng cấp. Việc đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ thì tràn lan, có danh nhưng không có thực, không theo quan điểm truyền thống của dân tộc Việt là: Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Trong đánh giá, đâu đâu cũng thấy xuất sắc, tiên tiến.
Căn bệnh trầm kha trên đây đã dẫn đến những kết cục bi hài: Cho ra đời những sản phẩm “dở thầy dở thợ”, có bằng cấp nhưng không có kiến thức thực sự. Vô số sinh viên ra trường nhưng không tìm được việc làm, do không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, họ đành phải làm những việc trái với chuyên môn, ngành nghề đào tạo nên không thể nào đạt hiệu quả cao trong công việc. Hàng năm, có thêm rất nhiều cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ, nhưng trong thực tế, họ không được xem là nguồn nhân lực cao cấp, là lao động chất xám, bởi họ không có những kiến thức tương xứng với những văn bằng đã được cấp. Theo nghiên cứu của một tổ chức quốc tế thì Việt Nam thuộc nước đứng đầu trong khu vực về tỷ lệ giáo sư, tiến sỹ... nhưng lại đứng thấp nhất về trình độ ngoại ngữ, khoa học và công nghệ.
Chính sách đãi ngộ, sử dụng của Nhà nước chưa thỏa đáng
Một sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường, vào làm việc trong một cơ quan nhà nước, với mức lương khởi điểm chỉ khoảng 1 triệu đồng thì thật là khó chấp nhận. Do đó, hiện tượng chảy máu chất xám ngày càng tăng. Nhân lực được đào tạo bài bản trong nước thường tìm việc ở những công ty nước ngoài. Nhiều du học sinh Việt Nam sau khi tốt nghiệp cũng thường tìm cách ở lại nước ngoài làm việc.
Hiện nay, trong cuộc cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao, lợi thế đã nghiêng về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, do chính sách lương bổng và những phúc lợi ở khu vực này thường cao hơn khu vực trong nước. Mặt khác, lao động chất xám làm việc trong các công ty nước ngoài thường được giao công việc với trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng, được quyết định trong phạm vi tương đối rộng, qua đó có thể phát huy được tính năng động, sáng tạo trong công việc, và về mặt tâm lý, họ cảm thấy được tôn trọng nhiều hơn.
Quản lý nhà nước về phát triển nhân lực chưa thích hợp
Tổ chức bộ máy chủ yếu theo nguyên tắc quản lý ngành dọc. Tổ chức mang tính phân tán và thiếu sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trên cơ sở định hướng chung, thống nhất, chỉnh thể về phát triển nhân lực cho thời kỳ dài hạn. Hầu như chưa có sự phối hợp quản lý giữa ngành và lãnh thổ, cũng như giữa các vùng lãnh thổ về đào tạo, phát triển nhân lực.
Phương pháp quản lý lạc hậu, hiệu lực thấp và kém hiệu quả. Các cơ quan chủ quản (bộ, cơ quan ngang bộ) thực hiện quản lý đối với các cơ sở đào tạo nhân lực trực thuộc chủ yếu bằng phương pháp mệnh lệnh hành chính, xơ cứng, bao biện và bao cấp (giao chỉ tiêu kế hoạch tuyển sinh cứng, cấp kinh phí trực tiếp cho cơ sở đào tạo, định mức chi phí đào tạo chậm sửa đổi...). Chưa sử dụng rộng rãi và hiệu quả các công cụ của thị trường lao động trong phát triển nhân lực, sử dụng công nghệ thông tin còn hạn chế... Còn có sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử đối với các cơ sở đào tạo nhân lực thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Thiếu những quy định và cơ chế để phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản lý với tổ chức đào tạo nhân lực và cơ sở sử dụng nhân lực. Từ đó, xuất hiện tình trạng phổ biến là cơ sở đào tạo nhân lực thể hiện sự độc quyền trong đào tạo; cơ sở sử dụng nhân lực không quan tâm để đào tạo. Thiếu cơ chế tạo ra sự cạnh tranh trong đào tạo nhân lực, làm cho người có nhu cầu đào tạo chịu thiệt thòi và không có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước chưa kiểm soát được chất lượng đào tạo và chưa thực hiện được vai trò định hướng đào tạo, liên kết giữa đào tạo và sử dụng nhân lực.
Còn tâm lý muốn duy trì những cơ chế, phương pháp quản lý cũ của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp mà chưa nắm bắt và theo kịp yêu cầu mới đối với quản lý phát triển nhân lực trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Hệ thống khung pháp lý về phát triển nhân lực còn thiếu và có nhiều điểm bất hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn đất nước và chưa tiếp cận được với hệ thống luật pháp quốc tế. Do đó, chưa thực sự là cơ sở pháp lý thuận lợi cho phát triển nhân lực trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Còn có những quy định pháp lý chưa thực sự tạo bình đẳng cho tất cả các cơ sở GD & ĐT thuộc mọi thành phần kinh tế, cơ sở công lập được ưu tiên nhiều hơn, tạo ra sự độc quyền trong quản lý và hoạt động đào tạo nhân lực.
Quản lý nhà nước về đào tạo còn nhiều bất hợp lý, chậm đổi mới. Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý GD & ĐT còn nhiều hạn chế và ngại đổi mới. Giải pháp về đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp chậm được ban hành. Hệ thống công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo thiếu và hoạt động kém hiệu quả; cơ chế quản lý đối với các cơ sở đào tạo lạc hậu, mang nặng tính hành chính, quan liêu bao cấp, hạn chế tính chủ động, sáng tạo của cơ sở.
Giải pháp chiến lược: Cải cách GD & ĐT theo hướng hội nhập quốc tế
Giải pháp mang tầm chiến lược để đáp ứng nhu cầu về nhân lực cả về chất lượng và số lượng cho công cuộc phát triển quốc gia là: Cải cách triệt để hệ thống GD & ĐT, từ trung ương đến cơ sở, từ tư duy, quan điểm, chương trình đào tạo đến phương pháp, phương tiện... theo hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý là: Trong bối cảnh Việt Nam , GD& ĐT không thể tự mình cải cách!
Có thể nhận định: Hệ thống GD & ĐT của Việt Nam hiện tại còn chứa nhiều yếu tố không bình thường, không chuẩn, khác lạ, thể hiện ở những yếu kém chủ yếu là: Chưa lành mạnh (còn nhiều tiêu cực); chưa tiên tiến (tư duy, chương trình đào tạo); chưa hiện đại (hạ tầng cơ sở). Một khi hệ thống còn nhiều yếu tố khác thường, thì những biện pháp chống tiêu cực chỉ mang tính ngắn hạn, tình thế.
Giải pháp chiến lược đối với công cuộc cải cách giáo dục của Việt Nam phải là chuyển “Hệ thống không bình thường” hiện tại đến một “Hệ thống bình thường”, để có thể bao gồm được các tố chất: Lành mạnh, tiên tiến và hiện đại.
Nguồn: T/c Hoạt động khoa học, 2/2008, tr 27








