Thị trường mua - bán phát thải khí nhà kính và khả năng tham gia của Việt Nam
Sự hình thành thị trường mua bán phát thải khí nhà kính
Đối với những nước phát triển, để giảm 1 tấn CO2 mất khoảng 30-40 USD, trong khi đó nếu bỏ ra số tiền hỗ trợ các nước đang phát triển đổi mới công nghệ sản xuất để giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính và mua quota khí thải từ những nước này thì các nước phát triển chỉ mất khoảng 7,5 - 16USD. Chính sự chênh lệch này đã hình thành nên một thị trường mua bán chỉ tiêu khí phát thải.
Thị trường mua bán phát thải khí nhà kính là một thị trường mới mẻ chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế từ trước đến nay. Do đó, chưa có được những quy ước, quy định chặt chẽ và rõ ràng trong cơ chế này. Tuy nhiên, đã là thị trường thì đương nhiên phải có người mua và người bán. Người mua ở đây là các nước phát triển; người bán là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam . Đã là mua và bán nên phải có "cân đong, đo đếm" rõ ràng. Ngoài việc các bên tham gia thực hiện dự án phải giám sát "cân đo" chặt chẽ, quốc tế còn quy định buộc phải có một tổ chức quốc tế được chỉ định để thẩm tra và đề nghị Ban chấp hành (đại diện của các nước tham gia) công nhận và cấp chứng chỉ, chứng nhận. Mua và bán phải có giả cả. Hiện nay, giá cả chưa hoàn toàn thống nhất, nhưng đang được đề xuất từ 2 đến 10 USD/tấn phát thải CO2 phụ thuộc theo từng dự án.
Thị trường mua bán giảm phát thải khí nhà kính ở Việt Nam :
Khả năng thực hiện các dự án về Cơ chế phát triển sạch (CDM) ở Việt Nam: Trước hết, Việt Nam là một nước có tiềm năng để thực hiện việc giảm phát thải. Hiện tại, Việt Nam không được xếp vào Phục lục 1 của thế giới, nghĩa là việc phát thải chung vào thế giới còn quá nhỏ bé, chưa phải bắt buộc giảm, nên rất thuận lợi để các nước phát triển đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các dự án CDM, để họ có thể nhận được một chứng chỉ.
Là một trong những nước đang phát triển, Việt Nam đã nhanh chóng tham gia cam kết với các tổ chức quốc tế, như ký kết Công ước khung, Nghị định Kyoto, tham gia dự án CDM, có chỉ định cơ quan đầu mối quốc gia, phê chuẩn nghị định thư v.v… tức là đủ điều kiện theo quy định của tổ chức quốc tế thực hiện xây dựng và thực hiện các dự án CDM.
Việt Nam cũng đã có nhiều ngành bước đầu nghiên cứu và xây dựng các dự án tiềm năng về CDM trong các lĩnh vực: Bảo tồn và tiết kiệm năng lượng; chuyển đổi sử dụng nhiên liệu hóa thạch; thu hồi và sử dụng CH4 từ bãi rác và từ khai thác than; ứng dụng năng lượng tái tạo; trồng mới rừng cây và tái trồng rừng; thu hồi và sử dụng khí đốt đồng hành. Trong đó, có những ý tưởng dự án đã được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và chuẩn bị thủ tục để thực hiện nhóm dự án thu hồi và sử dụng khí đồng hành mỏ Rạng Đông, dự án sử dụng hiệu quả năng lượng tại công ty bia Thanh Hoá. Tuy nhiên, một trở ngại của Việt Nam khi tham gia thị trường đó là mặc dù được giới chuyên môn đánh giá là nước có tiềm năng CDM trong các ngành tiết kiệm năng lượng, trồng rừng, thu hồi khí rác thải và chăn nuôi … trong giai đoạn 2001-2010, Việt Nam có thể giảm khoảng 80-120 triệu tấn CO2. Thế nhưng trên cả nước, con số doanh nghiệp tham gia vào thị trường trên chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên nhân của vấn đề này là phần lớn doanh nghiệp nước ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó định mức mà Ban điều hành CDM quốc tế đưa ra phải giảm 10 tấn CO2/doanh nghiệp/năm là quá cao. Hơn nữa việc làm phương pháp luận để được Ban Điều hành CDM thế giới chứng nhận khối lượng khí thải giảm được đặt ra yêu cầu quá phức tạp. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền về vấn đề này đến các doanh nghiệp chưa sâu rộng nên các doanhnghiệp còn chưa hiểu biết nhiều về cách thức cũng như tự đánh giá khả năng của mình khi tham gia vào cơ chế phát triển sạch.
Một số đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động thị trường mua bán giảm phát thải khí nhà kính ở Việt Nam
CDM và cơ chế mua bán quyền phát thải là rất mới mẻ đối với nước ta, do đó công tác quản lý Nhà nước đóng vai trò không thể thiếu trong việc triển khai thực hiện. Đối với Việt Nam, trong vấn đề này Nhà nước cần quan tâm tới các vấn đề sau: Chỉ đạo và điều phối quá trình xem xét và phê duyệt các dự án thuộc CDM; điều hành việc tham gia buôn bán phát thải về các tín dụng CO2, lồng ghép với chính sách ưu tiên của đất nước; xác lập mối quan hệ giữa CDM và các cơ chế phát triển khác (để tránh sự chồng chéo và mâu thuẫn).
Một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên là phải xác định các hướng ưu tiên có thể tham gia CDM. Chúng ta đã xác định 3 hướng ưu tiên gồm: Nâng cấp cải thiện công nghệ hiện có (nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng, đổi mới và hiện đại hoá); áp dụng các công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường; các dự án thuộc các chương trình, định hướng đang được nhà nước khuyến khích, ưu tiên. Cụ thể, các lĩnh vực có thể tham gia mà Việt Nam khuyến khích thực hiện gồm:
Tiết kiệm năng lượng. Các dạng được khuyến khích gồm nâng cấp hiệu suất sản xuất và truyền tải điện, nâng cấp hiệu suất sử dụng điện năng trong lĩnh vực công nghiệp và các nhà cao tầng.
Đổi mới năng lượng: Khuyến khích khai thác và sử dụng các loại năng lượng từ các nguồn như sinh khối, năng lượng mặt trời và văng lượng gió…
Lâm nghiệp: Khuyến khích các dự án bảo vệ bể chứa cacbon (bảo vệ và bảo tồn các khu rừng hiện có, tăng cường công tác quản lý rừng, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên rừng) và nâng cao hiệu quả của các bể chứa cacbon (trồng cây gây rừng).
Nhưng để thực hiện CDM, Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít trở ngại. Có thể nêu ra hai khó khăn chính tác động đến hiệu quả thực hiện dự án này là: Thiếu các văn bản pháp quy và các cơ chế hành chính để quản lý và thực hiện CDM; nhận thức về CDM của các nhà hoạch định chính sách và công chúng đều còn thấp. Trong thời gian tới cần khắc phục các trở ngại này để đảm bảo đạt được các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của CDM.
Do thị trường mua bán giảm phát thải khí nhà kính còn quá mới mẻ, nhiều cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là các nhà doanh nghiệp còn ít thông tin về thị trường này, do đó mặc dù tiềm năng thị trường Việt Nam là rất lớn, nhưng còn quá ít các doanh nghiệp xây dựng và đăng ký dự án cho đơn vị mình. Nhà nước cần phổ biến rộng rãi hơn nữa, cung cấp nhiều thông tin hơn cho các doanh nghiệp để họ có thể cân nhắc khi tham gia thị trường. Cần khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận càng nhanh càng tốt, vì phần “được” sẽ nhiều hơn nếu là doanh nghiệp đi tiên phong. Bên cạnh đó, đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, khi triển khai thực hiện CDM cũng cần phải thảo luận, cân nhắc vì đây là cơ chế hợp tác giữa một bên là các nước có nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính và một bên là các nước không có nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính. Qua thành phần và đối tác của CDM cho thấy tính đa dạng và phức tạp của việc áp dụng CDM ở mỗi đối tác và mỗi quốc gia khi điều kiện kinh tế - xã hội không tương đồng. Việc thận trọng trong phân tích và chấp thuận các phương thức, các thể chế của CDM là cần thiết vì nó không những sẽ bảo đảm quyền lợi của quốc gia mà còn nhằm bảo toàn sự trong sáng của mục tiêu mà UNFCCC đã đưa ra./.








