Thi trắc nghiệm có gì hay, có gì dở?
Khách quan (máy chấm bài), làm bài và chấm bài nhanh, chính xác, có thể kiểm tra kiến thức trên một diện rộng, nhờ vậy mà chống được học tủ. Nhưng nó cũng có nhiều mặt hạn chế: Thí sinh chỉ dùng có hai tín hiệu “đúng” và “sai” để trả lời mà không dùng ngôn ngữ, mà ngôn ngữ lại là cái vỏ của tư duy, nên kiểm tra tư duy bằng trắc nghiệm là việc khó thực hiện. Người Pháp có câu: “Điều gì nhận thức tốt thì nói ra được rõ ràng”. Tất nhiên, nếu giáo viên khéo kết hợp nhiều câu hỏi trắc nghiệm thành một chỉnh thể có quan hệ lôgic với nhau thì cũng có thể kiểm tra tư duy lôgic đến một mức độ nào đó. Nhưng việc đặt ra được những câu hỏi trắc nghiệm như vậy không phải là chuyện dễ cho nên chuẩn bị được ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm cho một kỳ thi nào đó là một việc đòi hỏi công phu. Vả chăng, một ngân hàng như vậy không thể dùng mãi vì dùng nhiều lần thì cách trả lời cho từng câu hỏi sẽ lộ hết, nên ngân hàng nào cũng phải được bổ sung, sửa đổi thường xuyên. Trên đây, chỉ mới nói đến tư duy lôgic, còn tư duy biện chứng và tư duy hình tượng thì trắc nghiệm không kiểm tra được. Vì sao? Tư duy biện chứng chấp nhận luật “phi bài trung” còn trắc nghiệm chấp nhận luật “bài trung (chỉ dùng cho hai tín hiệu “đúng”, “sai”, không có tín hiệu trung gian). Còn tư duy hình tượng thì uyển chuyển lắm, khó lòng thích hợp với luật bài trung. Mà thời đại ngày nay là thời đại của “sáng tạo”; “sáng tạo” là một sự vận động từ cái cũ đến một cái mới tiến bộ hơn cái cũ theo hướng đi lên của xã hội. Đã là một sự vận động (chứ không phải là một sự đứng yên) thì không thể dùng lôgic hình thức mà phải dùng lôgic biện chứng đồng thời cần óc tưởng tượng nên tư duy biện chứng và tư duy hình tượng là hai thành phần hàng đầu của tư duy sáng tạo.
Nói tóm lại, thi trắc nghiệm, nếu chỉ dùng để kiểm tra kiến thức (chứ không phải để kiểm tra tư duy, nhất là tư duy biện chứng và tư duy hình tượng, kiểm ra cách học) thì tuy có nhiều ưu điểm vẫn phải cân nhắc kỹ khi dự định dùng nó. Nếu dùng để nhanh chóng xét xem học sinh có nắm được kiến thức đến đâu thì có thể và nên dùng “trắc nghiệm”. Nhưng nếu muốn đi sâu vào cách học, cách tư duy, vào các phẩm chất con người có liên quan đến hiệu quả học tập theo hướng rèn óc thông minh, sáng tạo thì phải dùng tự luận được mài sắc thêm dưới ánh sáng của sáng tạo học. Nhiều người muốn nước ta noi gương nước Mỹ trong việc trắc nghiệm nhưng lại quên rằng chính nước Mỹ đã phải lo chạy đuổi kịp Nga trong lĩnh vực sáng tạo khoa học. Họ đã mời chuyên gia Nga, dịch sách Nga, và chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, họ đã tạo lập đào tạo trên đại học về sáng tạo học và lập ra một viện nghiên cứu về khoa học đó lấy tên nhà bác học Nga Altshuller (1926 - 1998), người đã có những đóng góp lớn cho việc ra đời sáng tạo học. Nhìn ra nhiều nước khác thì thấy có một sự chăm lo phát triển sáng tạo học còn trắc nghiệm được dùng ở những mức độ khác nhau, thường là dưới mức độ dùng ở Mỹ; nga thì khá dè dặt trong việc dùng trắc nghiệm. Mỗi nước có hoàn cảnh lịch sử riêng. Việt Nam chưa chính thức dùng trắc nghiệm, nay thử dùng cho biết thì cũng nên, vả chăng chắc nó sẽ còn cần dùng trong tương lai khi ta muốn nhanh chóng biết người học nắm kiến thức đến đâu. Theo tôi, nên sớm đi đến thi tốt nghiệp phổ thông với nhiều môn hơn so với hiện nay, nhưng nửa này thi tự luận, nửa kia thi trắc nghiệm. Hiện nay ta chỉ thi tốt nghiệp có 6 môn có lẽ vì trước đây chưa cón thi trắc nghiệm nên thi quá 6 môn e nặng nề. Nhưng chỉ thi có 6 môn thì kiểm tra tính toàn diệncủa học vấn phổ thông không đạt yêu cầu; ta thường kêu thế hệ trẻ bây giờ ít chú ý học sử, địa và hay kể ra nhiều chuyện ngớ ngẩn, cười ra nước mắt, về kiến thức sử, địa của họ. Đó là hậu quả của quy luật “thi thế nào, học thế ấy”. Thế hệ ngày xưa về hai môn này đều có thi vấn đáp nên thí sinh phải học tử tế, còn bây giờ, gần đến kỳ thi, Bộ mới cho biết trong hai môn đó thi môn nào...
Như vậy, rõ ràng trắc nghiệm vẫn còn nhiều ứng dụng, ở bất cứ nơi nào xét thấy cần phải kiểm tra nhanh chóng, nhẹ nhàng xem người học nắm kiến thức đến đâu. Nhưng loài người cũng đã khẳng định rằng ngày nay “cách học” quan trọng hơn “kiến thức” vì “cách học” là cái cần câu và cách câu, còn kiến thức là “con cá”. UNESCO, trước đây nói “học để biết” (learning to know) thì nay đã điều chỉnh thành “học để học cách học” (learning to learn). Để kiểm tra được “cách học” thì phải dùng “tự luận”, không phải “tự luận” tự phát như hiện nay (dựa vào kinh nghiệm riêng lẻ của từng giáo viên) mà là tự luận khoa học (dưới ánh sáng của sáng tạo học). Theo tôi, trong nhà trường của chúng ta, nên có lẫn lộn các bài tập trắc nghiệm và tự luận, trong đó trắc nghiệm chiếm khoảng 20%, còn tự luận thì phải nghiên cứu để hiện đại hóa nó dưới ánh sáng của sáng tạo học và dĩ nhiên là phải lo “chạy” để được sáng tạo vào các trường, trước hết là các trường Đại học, nhất là Đại học Sư phạm. “Sáng tạo” phải nổi lên hàng đầu, sau khi ta vào WTO. UNESCO cũng đã điều chỉnh “học để tự khẳng định” (learning to be) thành “học để sáng tạo” (learning to create) vì “sáng tạo” không chỉ đòi hỏi trí tuệ mà đòi hỏi một nhân cách toàn diện...
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ, số 27, 7/7/2007, tr 3








