“Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân”
Theo “Phật học phổ thông” của cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992, Đại dức Mục Kiều Liên là vị đồ đệ của Phật Thích Ca có bà mẹ tên là Thanh Đề bị bệnh nặng lâu ngày thuốc thang mãi không khỏi, chỉ còn da bọc xương. Đại đức Mục Kiều Liên cầu Phật và được Phật cho biết: “Mẹ ông do lòng dạ độc ác tham lam mà bị ác giả ác báo - bị bệnh, tuy ông là người con đại hiếu thảo với bà nhưng một mình ông không thể xoay chuyển được tình cảnh ông phải nhờ oai thần của chúng tăng trong mười phương mới cứu được mẹ ông”.
Nghe lời Phật dạy, đến ngày Chư Tăng hoàn thành ba tháng an cư, Mục Kiều Liên thành tâm kính lễ trai tăng (lễ mời các sư ăn cơm chay) và được các sư cứu mẹ thoát nạn - gọi là lễ Vu Lan (phiên âm từ tiếng Sancrit, dịch chữ Hán là “Đảo huyền”, nghĩa đen là cởi trói cho người có tội bị treo ngược lên cành cây, một hình phạt xưa ở Ấn Độ, ý nói bà mẹ Mục Kiều Liên bị trọng bệnh như thế không khác nào bị treo ngược cành cây). Để hiểu thêm lễ Vu Lan: thời Phật tại thế, khong có chùa như ngày nay, các sư phải đi lưu động mọi nơi truyền giáo, giảng đạo vào ba tháng mùa mưa ở Việt Nam, đường sá bị ngập lụt, các sư phải tìm nơi cao ráo tập trung mà học tập gọi là An Cư. Lệ tháng an cư của các sư được duy trì đến nay (ở ta là từ 15 - 4 đến 15 - 7 âm lịch hàng năm). Ở Ấn Độ mùa mưa kết thúc chậm hơn vào 15 - 9.
Ý nghĩa của lễ Vu Lan là báo hiếu ông bà cha mẹ. Lời Phật dạy Đại đức Mục Kiều Liên về việc báo hiếu này gọi là Kinh Vu Lan. Sự báo hiếu không phải chỉ thực hiện mỗi năm vào lễ Vu Lan mà phải thực hiện trong cuộc sống suốt cuộc đời người về công ơn trời bể của cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã chết. Và trong lúc báo hiếu phải có quan niệm đúng đắn sáng suốt mới đủ. Quan điểm báo hiếu của Phật không phải cố đẻ con trai để có người nối dõi tông đường, cũng không phải khi cha mẹ ông bà chết mới phô trương ma chay theo kiểu “Sống thì chẳng cho ăn, chết mới làm văn tế ruồi” mà săn sóc quan tâm đến cha mẹ khi cần, vâng lời cha mẹ nhưng không chiều theo ý sai trái của cha mẹ.
Tín ngưỡng bình dân cho rằng: ngày “Xá tội vong nhân là ngày bọn quỷ sứ Diêm vương tạm tha cho tội nhân về cõi dương ăn lễ cúng của người sống, cho nên người xưa bày ra tục đốt vàng mã vào Rằm tháng Bảy”.
Hủ tục đốt vàng mã bắt nguồn từ Trung Quốc cổ đại, chôn người sống cùng với người chết cùng với đồ đạc để họ dùng nơi cõi âm, vì thế mới có trường hợp ba anh em nhà Tử Xá là những quan đại thần bị chôn sống để hầu hạ phục dịch vua Tần Mục Công. Cổ lệ “Tuẫn táng” thật là man rợ, dã man tàn ác đó, người đời sau thay thế dần bằng các hình nhân thế mạng, rồi đến tiền bạc quần áo thật, rồi đến đồ vàng mã như nhà lầu xe hơi, tiền giấy... Thực ra hủ tục đốt vàng mã này xa lạ với nghi thức cúng lễ của đạo Phật, cũng không phải phong tục cổ truyền của nhân dân Việt Nam và Ấn Độ. Đốt vàng mã vừa lãng phí vừa độc hại gây ô nhiễm môi trường, vừa là hậu quả của nỗi nhục mất nước, nên từ lâu nhiều người có lương tri đề nghị lên Nhà nước cấm sản xuất và cấm đốt vàng mã như cấm đốt pháo có hiệu lực vì có lợi ích thiết thực của nó. Mọi người hãy góp phần tích cực, nhất là các chị, các mẹ, vai trò tề gia nội trợ, nên xem việc đốt vàng mã còn nguy hiểm tốn kém hơn việc đốt pháo.