Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 04/07/2008 00:07 (GMT+7)

“Thái Bình tu trí lực, vạn cổ thử giang san”

“Chung rượu đào” mà Bác Hồ chuẩn bị ngay từ ngày khởi đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mở đầu cho một hành trình suốt ba mươi năm, là nhất quán với quyết tâm “đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Bác Hồ hẹn với nhân dân “chúng ta cùng uống một chung rượu đào”, chiến tranh, hiện tượng bất bình thường trong đời sống của một dân tộc, cũng đã lùi xa hơn một phần ba thế kỷ! Phải chăng đã đến lúc những người Việt Nam không phân biệt quá khứ, ý thức hệ hãy cùng uống “chung rượu đào” được chưng cất trên tinh thần khoan dung và hoà hợp của truyền thống dân tộc, để cùng phấn đấu đưa đất nước bứt lên trong giai đoạn lịch sử mới.

Lịch sử có những bước phát triển ngoằn nghèo mang tính ngẫu nhiên, nhưng soi kỹ những ngẫu nhiên lịch sử ấy, lại thấy hiện ra tính quy luật. Chính những ngẫu nhiên đó đôi khi chứa đựng những bí ẩn mà sự giải mã chúng không phải lúc nào cũng thực hiện được, nhưng rồi với thời gian, những bí ẩn ấy đã là minh chứng của thiên tài. Sự kiện ngày 30 - 4 - 1975, kết thúc chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh tại thành phố mang tên Bác liệu có phải là một trong những ngẫu nhiên lịch sử đó không?

“Lịch sử là một thành phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào đứng vững được” (1). Nhấn mạnh điều ấy, Fernand Braudel, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu lịch sử nổi tiếng cho rằng: “Một quá khứ gần và một quá khứ xa, hay ít nhiều hoà vào nhau trong sự đa dạng của thời hiện tại: trong khi một lịch sử gần đây chạy nhanh đến với chúng ta thì một lịch sử xa xưa lại chạy đến với chúng ta bằng những bước chân chậm rãi” (1), và ông cho rằng: “Tại tiếp điểm của các thời kỳ rộng lớn thường xuất hiện những bộ óc siêu việt mà nhiều thế hệ được thể hiện ngay ở đó” (1).

Phải chăng, Hồ Chí Minh là một trong những bộ óc như vậy. Thì chẳng phải Charles Fourniau, nhà sử học nổi tiếng của Pháp, từng khẳng định: “cần làm nổi bật một cách hiển nhiên và trên mọi tầm vóc, hình ảnh một con người đã là một trong ba hoặc bốn nhân vật vĩ đại nhất của phong trào công nhân và cách mạng thế giới, một trong những vĩ nhân của thế kỷ chúng ta” đó sao?

Có lẽ khỏi phải thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, chỉ xin lấy ra đây vài ý tưởng mang tính tiên đoán và dự báo mà vào thời điểm xuất hiện, người ta cảm nhận như là sự bí ẩn của lịch sử. Chẳng hạn, câu “45 sự nghiệp hoàn thành” trong diễn ca Lịch sử Việt Nam làm cuối năm 1941. Rồi sự cả quyết cái mốc “1945 - Việt Nam Độc Lập” trong “Những năm quan trọng”kèm theo diễn ca ấy (2). Hoặc là sự khẳng định của Bác vào tháng 12 năm 1967, trong buổi làm việc với Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua… Nó chỉ chịu thua sau khi thua trên vùng trời Hà Nội”, nghĩa là 5 năm trước trận “Điện Biên Phủ trên không” dẫn đến Hội nghị Paris 1973, để hai năm sau là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước!

Liệu có phải hiện thực lịch sử đã giải mã những cái gọi là bí ẩn trong những dự báo, những tiên đoán của bộ óc vĩ nhân? Còn có rất nhiều những chuyện như vậy về Bác Hồ. Sau đây chỉ dẫn ra một điểm thú vị và độc đáo, “trong tâm hồn Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn phảng phất có thơ “ (Phạm Văn Đồng). Và dưới đây là thơ chen vào trong một lời chúc mừng năm mới, năm 1946: “Bao giờ kháng chiến thành công, Chúng ta cùng uống một chung rượu đào, Tết này ta tạm xa nhau, Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy” (2).

Kể từ ngày Nam bộ Kháng chiến chống thực dân Pháp 23 - 9 - 1945, phải ba thập kỷ chiến đấu dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành phố mang tên Bác cùng với nhân dân cả nước mới hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp để có thể thoát lên khúc hùng ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” đúng như lời mong muốn của Bác viết trong thư chúc tết năm 1946. Tuy rằng “Tết sau” ấy cần phải có một quãng thời gian 30 năm, song “rượu đào” mà Bác Hồ chuẩn bị cho ngày “sum vầy” đã được chưng cất, gìn giữ trong lòng nhân dân Nam bộ và nhân dân cả nước suốt bấy nhiêu năm.

Quả thật, đúng như nhận định của Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống của con người, có nhận thức sâu về vận mệnh của con người, có nhận thức sâu về vận mệnh của dân tộc, về hướng đi của thời đại. Bản lĩnh đó hình thành trong quá trình lâu dài rèn luyện qua đấu tranh cách mạng. Con người với bản lĩnh đó là con người tiêu biểu cho dân tộc, của mọi người, thắm đượm hương vị non sông đất nước Việt Nam, thấm nhuần vẻ đẹp của thành quả văn minh xưa nay của loài người” (3).

“Con người tiêu biểu cho dân tộc” ấy kế thừa thật sáng tạo những tinh hoa của truyền thống ông cha, trong đó có những nhân vật kiệt xuất được xuất hiện “tại tiếp điểm của các thời kỳ rộng lớn” mà thời Trần với cuộc kháng chiến chống đế quốc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII là một ví dụ tiêu biểu. Cần phải đặt bối cảnh của đất nước ta vào thời buổi ấy mới thấy hết được tầm vóc ông cha ta, dám ba lần quyết chiến và quyết thắng một đế quốc mà vó ngựa xâm lược của chúng từng xéo nát nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn từ Á sang Âu. Cần nhớ rằng buổi ấy, ông cha ta phải “đơn phương độc mã”, không hề có một sự “hậu thuẫn quốc tế” nào để chống lại một đế chế từng kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia Hắc Hải chưa từng có trong lịch sử! Ở đây chỉ dẫn ra vài lý tưởng, vài câu thơ.

Bản lĩnh ấy lớn biết bao, cho đến cuối thế kỷ XIII vua Trần Nhân Tông còn viết: “Bạch đầu quan sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong” ( Người lính già đầu bạc. Mãi kể chuyện Nguyên Phong). Người lính ấy thật xứng với những vị tướng anh hùng của mình. Lãnh đạo cánh quân chủ lực đánh tan tác quân giặc, rước vua về kinh sư, Thượng tướng Trần Quang Khải làm bài thơ có câu: “Thái bình tu trí lực. Vạn cổ thử giang san” ( Thái bình nên gắng sức. Non nước ấy ngàn thu).

Vị tướng ấy cũng thật xứng đáng với vua của mình. Dẹp tan quân xâm lược, vua làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng, nơi giặc đã khai quật muốn phá đi nhưng không phạm được tới quan tài, khi giặc thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn, Trần Nhân Tông đã có thơ: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu” ( Xã tắc hai phen bon ngựa đá. Non sông, muôn thuở vững vàng). “Âu vàng” là biểu tượng sự toàn vẹn và vững chắc của lãnh thổ một nước. Để “muôn thuở vững âu vàng”, Đại Việt Sử ký toàn thưchép: “Mùa hạ, tháng tư (tức là chỉ hơn nửa tháng sau lễ bái yết Chiêu Lăng – TL), Thượng hoàng ngự ở hành lang Thị vệ (vì cung điện bấy giờ đã bị giặc đốt hết), đại xá thiên hạ. Những nơi bị binh lửa cướp phá thì miễn toàn bộ phần tô, dịch, các nơi khác thì miễn giảm theo mức độ khác nhau” (4). Lại chép: “Trước kia, người Nguyên vào cướp, vương hầu, quan lại nhiều người đến doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua, bắt được cả một hòm biểu xin hàng. Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc” (4). Khó có một ứng xử khoan dung của người thắng trận với ý nghĩa tiêu biểu và sâu sắc đến thế mà sử sách đã ghi lại. Rồi đối với kẻ thù, khi chúng đã thất trận, cũng nhận được sự khoan dung đó. Đại Việt Sử ký toàn thưchép: “Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lê Ngọc dâng lên Thượng hoàng. Thượng hoàng sau dẫn lên thuyền ngự, cho cùng ngồi, nói chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ” (4). Sử cũng chép: “Vua trông thấy thủ cấp của Tao Đô, thương hại nói: “Người làm tôi phải như thế này” (4). Sử chép lời bình của Ngô Sĩ Liên: “Than ôi! Câu nói ấy của vua thực là câu nói của bậc đế vương! Nói rõ đại nghĩa để người bề tôi muôn đời biết rằng trung với vua, chết vì phận sự là vinh, tuy chết mà bất hủ, mối quan hệ lớn lắm vậy” (4).

Có được bản lĩnh đánh giặc xong thì gắng sức xây dựng lại đất nước trong thái bình, để giữ cho được sự toàn vẹn và vững chắc đất nước, mới có được sự khoan dung đó. Lời dặn của Trần Hưng Đạo mãi mãi sáng ngời trong sử sách mà Đại Việt Sử ký Toàn thưđã chép: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” (4). Cũng trên tinh thần khoan thư sức dân đó, nhằm tránh cho dân phải gánh cái nặng thuế khoá để cung phụng cho bộ máy quan tước của triều đình, sử cũng đã chép Thượng hoàng Trần Nhân Tông khi biết được Anh Tông từng ban tước hơi nhiêu cho các quan trong triều: “Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế, từ đó lại càng thận trọng khi ban chức tước!” (4).

Tinh thần khoan dung đó chính là sự kết nối của lịch sử, kế thừa truyền thống Việt. Đó là cương lĩnh dựng nước của Khúc Hạo, khởi đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập từ năm 907: “Chính sự cốt chuộng sự khoan dung, giản dị” khiến cho “nhân dân đều được yên vui”.

Có được sự khoan dung đó mới có được cái ung dung tự tại của người chiến thắng như Thượng hoàng Trần Thánh Tông thể hiện trong bài thơ làm ở cung Thiên Trường, có câu: “Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự, Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu. Tứ Hải dĩ thanh trần dĩ tĩnh, Kim niên du thắng tích niên du” (4) ( Trăng vô sự soi người vô sự, Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu. Bốn biển đã quang, trấn đã lặng. Chuyến đi nay thắng chuyến đi xưa). Bảy trăm năm sau, cho dù “lịch sử gần chạy nhanh, lịch sử xa xưa chạy bằng những bước chân chậm rãi” thì chúng ta vẫn nhận ra sự kết nối ấy trong tứ thơ vừa cổ kính vừa hiện đại của Hồ Chí Minh: “Yêu ba thâm xứ đàm quân sự. Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền ( Nguyên Tiêu) ( Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn việc quân, Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng). Hoặc “Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu, Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên (Đối Nguyệt) ( Việc quân việc nước bàn bạc xong rồi. Xách gối đến bên cửa sổ nằm ngủ dưới ánh trăng) .

Chiến tranh dù sao cũng là hiện tượng bất thường trong đời sống con người. Buộc phải chấp nhận sự bất bình thường đó để lấy lại cuộc sống bình thường xứng đáng với bao hy sinh xương máu của nhiều thế hệ, đó là tinh thần xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta… Những ý tưởng, những tứ thơ của những vĩ nhân vừa dẫn ra ở trên đều thấm đẫm tinh thần ấy.

“Chung rượu đào” mà Bác Hồ chuẩn bị ngay từ ngày khởi đầy của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mở đầu cho một hành trình suốt ba mươi năm, là nhất quán với quyết tâm “đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Bác Hồ hẹn với nhân dân “chúng ta cùng uống một chung rượu đào”, chiến tranh, hiện tượng bất bình thường trong đời sống của một dân tộc, cũng đã lùi xa hơn một phần ba thế kỷ! Phải chăng đã đến lúc những người Việt Nam không phân biệt quá khứ, ý thức hệ hãy cùng uống “chung rượu đào” được chưng cất trên tinh thần khoan dung và hoà hợp của truyền thống dân tộc, để cùng phấn đấu đưa đất nước bứt lên trong giai đoạn lịch sử mới.

Khi tiến trình phát triển và hội nhập đi vào chiều sâu, trong quỹ đạo phát triển của thế giới, ngay cả những kẻ thù cũ trong chiến tranh cũng đã trở thành những đối tác tin cậy trong các hoạt động kinh tế, văn hoá thì trong nôi bộ đất nước, khi đã nguyện khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, sao không quyết liệt xoá bỏ những định kiến, những trói buộc của lối tư duy cũ “ai thắng ai” trong một bối cảnh mới mà khả năng “cùng thắng” đã được chứng minh.

Vả chăng, với việc trở thành một thành viên của WTO, là “một ngôi sao mới nổi” trên bầu trời thương mại thế giới, đất nước ta đã tự đặt mình vào trong quỹ đạo của sự phát triển của cộng đồng quốc tế, đã là một hệ thống thích nghi phức tạp trong hệ thống thích nghi phức tạp hơn, không thể không có những bứt phá trong tư duy dẫn đến những bứt phát trong chủ trương, chính sách, giải pháp để có hành động thiết thực, tạo ra động lực mới của sự nghiệp phát triển đất nước. Diễn biến của những biến động trong sự chuyển tiếp từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI đã cho thấy rằng những ai còn chần chừ tin rằng tương lai sẽ là sự tiếp tục đơn thuần của quá khứ sẽ sớm thấy mình bị hụt hẫng và đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi, nếu không có một đôi mắt mới có thể nhìn vào thế giới.

Năm nay cũng là năm đầu tiên Nhà nước ta lấy ngày Giỗ Tổ Hùng Vương làm ngày Quốc lễ, khẳng định thêm một bước ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước là sức mạnh lớn nhất, động lực mạnh mẽ nhất của người Việt Nam “con người có tổ có tông, như cây có gốc, như sông có nguồn”, càng thúc đẩy thêm ý chí và quyết tâm của ông cha ta khi đã giành lại được hoà bình cho đất nước thì gắng sức để giữ lấy cơ nghiệp cha ông muôn đời để lại. Làm sao để ý tưởng và tâm nguyện của Bác Hồ “chúng ta cùng uống một chung rượu đào” được trân trọng thực hiện!

“Chung rượu đào” ấy chính là sự thăng hoa ý chí “Thái bình tu trí, Vạn cổ thử giang san” xuyên lịch sử.

Chú thích

1. Fernand Braudel. Tìm hiểu các nền văn minh. Nxb Khoa học xã hội, 1992, tr 33, tr 74.

2. Hồ Chí Minh Toàn tập.Tập 3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 230. # Có bản chép: “Mai sau sự nghiệp hoàn thành”.

3. Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp.Nxb Sự thật, 1990, tr 15.

4. Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, tr 62, tr 65, tr 103, tr 79, tr 66.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.