Tết tháng 2 của người Tu Dí
Đến nay, nhiều sắc thái văn hoá truyền thống của người Tu Dí có nguy cơ mai một. Theo phân loại về nhóm ngôn ngữ thì tộc người này được xếp vào nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, tuy nhiên, do ảnh hưởng của quá trình di cư và điều kiện cư trú, người dân quên dần tiếng “mẹ đẻ”mà thay vào đó là tiếng Quan Hoả làm phương ngữ giao tiếp chính tại địa phương. Mặc dù có sự biến đổi về mặt ngôn ngữ nhưng người Tu Dí vẫn lưu giữ được khá nhiều sắc thái văn hoá cổ truyền: văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, y học dân gian… xuyên suốt chu kỳ đời người.
Giống như nhiều tín ngưỡng của các dân tộc khác như: người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ thường tổ chức lễ cúng, rước Thành hoàng làng, cầu “Người yên vật thịnh”, cư dân miền biển tổ chức lễ hội Ngư ông “thờ cá voi” cầu sức mạnh của biển khơi phù trợ cho việc đánh bắt và an lành nghề cá, lễ hội xuống đồng của người Tày, lễ cúng Thần nông của người Dao Tuyển… tết tháng 2 của người Tu Dí cũng không nằm ngoài quan niệm trên. Người dân làm lễ nhằm đuổi hết những tai ương dịch bệnh (ma hoả, chư dịch…) ra khỏi khu vực cư trú, cầu mong cuộc sống yên bình, làm ăn ổn định cho con người, gia súc, của một gia đình và cộng đồng nơi cư trú.
Lễ cúng được tổ chức luân phiên theo số gia đình trên địa giới hành chính thôn - bản theo sự phân công từ sau lễ cúng năm trước. Thường lệ, đến giáp thời gian chính lễ, chủ hộ được phân công cùng trưởng thôn tổ chức họp với đại diện các gia đình, để bàn bạc, các công việc, mức đóng góp, phân công trách nhiệm cho từng thành viên. Trên cơ sở đó, mọi người tự giác chuẩn bị hoàn thiện các công việc trước ngày chính lễ: mời thầy cúng, thống kê danh sách gia đình, số lượng giấy dán phù hộ trước cửa các gia đình, đan thuyền rồng bằng tre, túi đựng hạt ngũ cốc, mảnh bát vỡ…
Lễ quét nhà
Đến ngày lễ chính, thầy cúng cùng đoàn người tập trung tại điểm dâng lễ chính của cộng đồng, thắp nhang trình báo mục đích tổ chức lễ cúng rồi cùng đoàn người đi đến từng gia đình làm lễ quét nhà. Đi đầu là thầy cúng cầm các đạo cụ: kiếm, chuông, giấy dán… rồi đến người cầm lễ vật dâng cúng (2 con gà), người khiêng thuyền rồng bằng tre… Đoàn người khi đến gần mỗi nhà cùng hô to sồ… sồ…sồ…sồ kèm theo ném mảnh bát vỡ, huơ tay, vẩy gà, té nước, huơ huơ cành cây lá xanh… vào các góc của ngôi nhà tạo nên những tiếng động đầy huyên náo nhằm đuổi các tai ương như ma hoả, dịch bệnh ra. Tiếp đến, thầy cúng cầm kiếm huơ huơ rồi đến bên bếp chính đọc vài câu niệm… thầm hứa đảm bảo cho gia đình bình an, không bị hoả hoạn… thầy tiến lại gần bàn thờ khấn báo tổ tiên phù hộ cho con cháu luôn được may mắn, làm ăn thuận lợi… Xong, thầy bước ra phía cửa, chủ nhà đã chuẩn bị sẵn một bát nước kèm theo 5 loại hạt ngũ cốc: thóc, ngô, đậu tương, hạt kê, vừng, thầy đưa bát gần sát miệng niệm chú rồi đổ bát nước ngang cửa, đập bát, đưa các hạt ngũ cốc vào thuyền rồng, lấy giấy dán tại các cửa chính, đóng cửa rồi đi đến các nhà khác. Chủ nhà đợi thầy cúng và đoàn người đi khuất mới mở cửa, tiếp tục công việc thường ngày…
Sau khi thầy cúng và đoàn người đi lần lượt các nhà, mọi người tập trung tại điểm thờ cúng chính của làng (tại đây họ xếp đá thành một bàn thờ nhỏ) thờ Sơn thần, Thổ địa, người khai phá làng và các vị thần phù trợ cho cuộc sống của họ. Thuyền rồng đặt phía trước, kèm theo các lễ vật dâng tế. Thầy cúng thắp nhang chuẩn bị lễ cúng chính của dân làng rồi cắt tiết 2 con gà trống, lấy lông cổ quết huyết đỏ dán vào vách đá - điểm thờ cúng, cho mọi người làm thịt chuẩn bị lễ cúng chính lần 2. Trong khi mọi người lo các phần việc, thầy cúng ngồi trước đàn trường (điểm cúng) đọc nội dung bài cúng:
Bài cúng gồm 4 bước: khai lễ, mời thần, mời lên thuyền và cầu thần.
Khi đã cúng xong, lễ vật và thuyền thả trôi suối để mang bệnh đi. Thầy cúng làm phép chắn đường, không cho dịch bệnh quay lại.
Kết thúc bài cúng, thầy đọc sớ tâm về thời gian, địa điểm, thành phần của các gia đình trong thôn - bản tham gia, cầu các chư thần, chư dịch phù hộ một cuộc sống yên bình, làm ăn mưa thuận gió hoà… Đến đây, thầy cho người bày cơm, các vật dâng cúng, trải lá chuối, lá dong theo chiều dọc nơi hành lễ, riêng cơm, rượu, bát, đũa do cá nhân dự lễ tự mang theo bày ra, mọi người cùng nhau nâng chén, chúc cho một năm làm ăn yên ổn, gặp nhiều may mắn…
Sau lễ cúng, thầy cúng (hoặc người già) xem bói xương chân đùi trên cơ sở số chẵn, lẻ, nghiêng, thẳng… mà họ dùng que cắm để mọi người cùng nhìn, đoán vận mệnh may mắn hay rủi ro trong một năm của cộng đồng (gia đình), từ đó người dân tự chủ động công việc của mình theo tâm niệm mà các đấng thần linh mách bảo.
Lễ quét nhà của người Tu Dí phản ánh tâm niệm của cộng đồng về một cuộc sống bình yên giữa núi rừng còn hoang sơ và vất vả. Qua lễ cúng, nhiều thông tin, quan niệm về các vị thần; quan niệm âm dương trời đất, Phật giáo: Tam bảo, Đại thánh thiên tôn… là những tư liệu quý giúp các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian đi sâu tìm hiểu sắc thái văn hoá truyền thống của một nhóm tộc người trong cộng đồng văn hoá đa sắc tộc Việt Nam.
Nguồi: Dân tộc & Thời đại, số 77, 4/2005







