Tết Nguyên đán trong Hoàng cung nhà Nguyễn
Ngay từ ngày 1-12(âm lịch), triều đình Huế đã tổ chức lễ Ban sóc (Phát lịch). Trước đây, lễ này được tổ chức tại điện Thái Hoà, nhưng đến năm 1840, vua Minh Mạng cho tổ chức ở Ngọ Môn. Các loại lịch được phát gồm Long lịch, Loan lịch, Phượng lịch, tuỳ theo thứ bậc và phẩm trật mà ban.
Sau lễ Ban sóc, vào tiết lập xuân, là lễ Tiến Xuân. Người xưa làm một hình nộm “Mang thần” (thần Chăn trâu) và một con trâu đất với kích thược tượng trưng, ứng với số tháng, số ngày trong một năm và tổ chức lễ rước. Lễ này còn gọi là: lễ đưa trâu tiến xuân. Cuộc rước đi qua một vài nơi trong Hoàng thanh và kết thúc bằng việc quan phủ Thừa Thiên đưa trâu (trâu đất) ra đánh ba roi, tượng trưng cho sự khuyến nông, biểu hiện ước mơ về một đời sống vật chất đầy đủ trong năm mới.
Để chuẩn bị cho thời gian vui tết trong Hoàng cung, triều đình cho trang hoàng các cung điện. Đặc biệt, từ Ngọ môn đến điện Thái hoà, điện Cần Chánh và một số nơi ở của Hoàng gia trong Tử Cấm Thành được trang trí lộng lẫy với các loại cờ, hoa, lồng đèn, câu đối tết…
Ngày 20 tháng chạp (âm lịch), lễ Phất thức (tức là lễ rửa ấn) được tổ chức. Các quan trong triều mặc áo thụng xanh ra chầu tại điện Cần Chánh. Vua ngự ra. Mọi tủ chứa ấn được mở, ấn được rửa bằng nước hương thuỷ lấy từ ngã ba sông và đựng trong một cái bình đầy hoa thơm. Ấn rửa xong được các quan cất vào tủ khoá lại, không dùng trong dịp tết vì vua và quan đều nghỉ việc.
Lễ Phất thức có từ đời vua Minh Mạng thứ 18 (1837).
Ngày 22 tháng chạp, vua ngự đến Thái miếu làm lễ Hạp hướng, mời các vị tiên đế ăn tết Nguyên đán. Trên mỗi bàn thờ, có bày một cây lụa trắng gọi là Chế bạch.
Ngày 30 tháng chạp, vua ngự ra điện Thái hoà làm lễ Thượng tiện (lễ dựng nêu). Sau đó, dân chúng mới được dựng nêu ở nhà mình. Cũng ngày hôm đó, tổ chức thiết triều cuối năm. Tại điện Thái hoà, đặt một hương án để tờ biểu của quan lại trung ương, một hoàng án để tờ biểu của quan lại địa phương chúc mừng vua. Giữa điện trải chiếu bái cho các hoàng tử, hoàng thân, hai bên là chỗ bái của các quan văn - võ từ tam phẩm trở lên. Các quan từ tứ phẩm trở xuống đứng dưới sân rồng. Hai phía đông – tây có 8 hàng lính cấn vệ dàn hầu và đội nhạc cung đình tấu nhạc.
Suốt đêm 30 tháng chạp, các bà phi chầu hoàng thượng ở điện Quang minh, các cung nữ múa hát ở cung Duyệt thi. Đến giờ giao thừa, họ phải qua cung Hương minh lễ thần Hành khiển. Trước đó, họ đến cung Khôn thái, rước các bà hoàng thái hậu ngự lên phụng liễn. Hàng trăm cung nữ, tay cầm đèn lồng Tinh anh, 20 viên Thái giám nâng đỉnh trần đại cát đi theo, chân mang võ hài màu xanh thẫm phò phụng liễn. Một nữ tướng dẫn đầu, cầm cờ thánh lệnh mở đường cho đạo ngự cung nhập. Lễ xong, họ lui về Đoan trang viện. Từ cầu Trường loan trước cửa Hoả bình đến lầu Minh chánh, pháo nổ vang dội khắp một vùng.
Ngày mồng một tháng giêng, lễ Nguyên đán được cử hành trọng thể. Đầu canh năm, trống nghiêm hồi thứ nhất, viên quản vệ dàn bày cờ quạt, ngai trượng… Trống nghiêm lần thứ 2, các quan mặc lễ phục vào trực sẵn trên sân điện Thái hoà. Mờ sáng, trống nghiêm lần thứ 3, trên kỳ đài kéo cờ đại và sắc cờ khánh hỷ. Quan Khâm thiên giám báo giờ. Vua đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, cầm hốt trấn khuê ngự ra điện Cần chánh, rồi được mời lên kiệu, long trọng rước sang điện Thái hoà. Nhạc tấu; 9 phát súng nổ, viên Thái giám đốt hương trầm. Quan Nội các tiến lên hoàng án lấy biểu chúc mừng trao cho quan tuyên đọc. Đọc xong, các quan lạy tạ. Quan phụng chỉ đọc lời đáp của Vua. Nhạc tấu khúc hoà bình. Tại đây, các hoàng hậu, thái tử và các quan văn - võ từ tứ phẩm trở lên chia ban đứng đầu. Thái giám dẫn các Hoàng đệ, Hoàng tử nhỏ tuổi đến lạy mừng 5 lạy. Vua ban yến và thưởng tiền xuân cho mọi người.
Các bà phi, cung nữ nghe tiếng trống Tiên nghiệm thúc giục, tề tựu trước cung Khôn thái, đợi các công chúa ở ngoài thành vào để quan điện Phụng tiên là lễ Khánh hạ.
Ngày mồng 2, vua tiếp tục ban yến cho hoàng tộc và quan - tướng.
Ngày mồng 4 tháng giêng, lễ Triều minh cử hành.. Vua ngự ra các điện và các đền Thái miếu, Thế miếu, Hưng miếu, Phục tiên và Cung miếu.
Ngày mồng 5 tháng giêng, cử hành lễ Tấu luận (lễ cúng ông “Mang thần” đứng bên cạnh con trâu) trước núi lấy tên là Linh Sơn bửu toạ.
Ngày mồng 7 tháng giêng, lễ Khai hạ tức là lễ hạ nêu được cử hành.
Ngày mồng 8 tháng giêng, một vị quan to do vua cử lên đàn Nam Giao làm lễ Kỳ cáo, cáo trước với trời đất ngày và tháng đã tìm được về lễ tế trời.
Sáng ngày 11 tháng giêng, triều đình còn tổ chức lễ tế Kỳ đạo (tế cờ). Bộ Lễ dựng ngoài kinh thành (ở góc đông, nam) một cái đàn tế và thiết trí các án thờ với những bài vị ghi chữ Hán như: Kỳ độc thần; Kỳ đầu đại tướng; Lục độc đại tướng; Ngũ phương kỳ… Giữa đàn tế cắm một lá Kỳ đạo (cờ đầu) bằng nỉ vàng, trong lòng thêu hình long vân…. Bộ Binh phái 300 quân lính cầm súng ống, giáo mác, bày ba cỗ đại bác xung quanh đàn tế. Một viên quan võ nhất phẩm vào điện Cần chánh bái vua, lĩnh cờ mao tiết và được nhà vua sung chức Chánh tế. Đến nửa đêm, buổi lễ bắt đầu. Quan Chánh tế được rước ra đàn tế để chờ sẵn, chuẩn bị cho cuộc lễ. Sáng hôm sau, các quan khâm mạng mặc triều phục vào tế dâng 3 tuần rượu. Tế xong, bắn ba phát đại bác. Qua đó, quan văn-võ ban khâm mệnh đại thần ra lệnh xuất quân với các cuộc tập trận như bắn súng, cỡi voi, phi ngựa trong các đội quân bộ binh, thuỷ binh, diễn tập thuyền chiến. Nhà vua thân chinh đến xem và duyệt trận.
Trong dịp đầu năm, lễ Tịch điền cũng được tổ chức. Vua đích thân cày ruộng để làm gương cho dân chúng. Từ đời vua Đồng Khánh trở đi, các vua Nguyễn thường tổ chức du xuân để thưởng thức cảnh năm mới và xem dân chúng vui tết. Tết trong cung đình nhà Nguyễn mang dáng vẻ của sự quý phái, xa hoa, tôn nghiêm và quyền lực, thể hiện nổi bật, trang trọng nghi thức của tết cổ truyền Việt Nam .
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số Tết Ất Dậu








