Tại sao khoa học và công nghệ Việt Nam chưa thể cất cánh?
Khi theo dõi các buổi chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân của một số địa phương, câu hỏi quen thuộc được nghe là “Ngân sách nhà nước chi cho KH&CN nhiều mà tại sao hiệu quả chưa cao?”. Trong khi đó, tại các cuộc họp tổng kết năm của một số Sở KH&CN địa phương, lại có hiện tượng kinh phí thừa và đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) thiếu. Một hiện tượng nữa đáng phải suy nghĩ là, gần đây, trên một số báo điện tử xuất hiện các bài viết của một số nhà khoa học cho rằng, Việt Nam không có tên trên bản đồ KH&CN thế giới. Trong bối cảnh đó, rất nhiều người làm công tác NCKH (đặc biệt là lớp trẻ) không tránh khỏi sự dao động.
Mặt khác, hiện nay số cán bộ khoa học (trong đó chủ yếu là người giỏi) đã và đang chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Tình trạng này dẫn đến chất lượng cán bộ NCKH trong các viện, trường ngày càng giảm sút, hiệu quả NCKH yếu là điều đương nhiên.
Những vấn đề đặt ra trên đây đã được các nhà hoạch định chính sách KH&CN nghiên cứu và biết khá rõ. Điều đáng quan tâm là tại sao vẫn không cải thiện được tình hình?
Kinh phí và cơ chế quản lý
Kinh phí cho NCKH ngày càng nhiều hơn. Được biết, hàng năm, ngân sách nhà nước cấp cho NCKH khoảng 400 triệu USD. Đây đúng là con số khá ấn tượng trong điều kiện Việt Nam còn là một nước kém phát triển đang ở vị trí thứ 20-30 trên thế giới tính từ dưới lên. Nhưng con số đó cũng chưa thể gọi là lớn đối với nền KH&CN của một quốc gia. Tôi xin nêu một ví dụ: Viện KH&CN Việt Nam - một cơ quan sự nghiệp của Chính phủ, năm 2008 được cấp khoảng 340 tỷ đồng (tương đương 21 triệu USD) - chỉ bằng 5% của con số 400 triệu USD. Trong số đó, có gần 100 tỷ dành cho xây dựng cơ bản, tăng cường trang thiết bị. Phần còn lại khoảng 240 tỷ chi cho 37 đơn vị NCKH với số cán bộ gần 4.000 trong biên chế và hợp đồng dài hạn. Nếu tính bình quân thì một người được khoảng 60 triệu đồng/năm (dùng cho lương và các hoạt động NCKH, chuyển giao công nghệ, chi phí điện, nước, vật tư nghiên cứu…). Nếu tính theo tháng thì mỗi người được vừa tròn 5 triệu đồng/tháng. Xin hỏi, 5 triệu đồng có thể làm được gì? Liệu số tiền đó có đủ để đóng phí cho một bài báo quốc tế?
Về chính sách quản lý tài chính, nhiều người thường nói, chính sách này của ta chặt, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều điều chưa hợp lý. Xin được nêu một ví dụ: Cách đây không lâu, UBND một tỉnh ở phía Nam đặt hàng cho Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng nghiên cứu tổng hợp thuốc sinh học không gây độc cho người, có khả năng tiêu diệt một loại côn trùng đang hoành hành trong khu vực gần 20 năm nay, gây nên nhiều khó khăn cho người dân. Sau khi tìm hiểu thực tế và nghiên cứu thử nghiệm, chúng tôi đồng ý nhận sự đặt hàng nói trên và làm dự toán thực hiện. Tỉnh này đã lập một Hội đồng KH&CN để xem xét theo đúng quy định. Hội đồng đã nghe chủ nhiệm đề tài trình bày về nội dung, phương pháp nghiên cứu, sản phẩm giao nộp và cả dự toán về kinh phí. Kết luận cuối cùng của Hội đồng là nhất trí thực hiện đề tài, với kiến nghị bổ sung thêm một số nội dung nghiên cứu và tăng thêm kinh phí thực hiện (kinh phí dự kiến ban đầu là 350 triệu đồng). Theo đó, chúng tôi đã chỉnh sửa lại nội dung với kinh phí là 410 triệu đồng. Cứ tưởng rằng, Hội đồng KH&CN của tỉnh là cao nhất, nhưng thực tế, Sở Tài chính chỉ phê duyệt 290 triệu đồng mà không có một giải thích nào. Vì nỗi bức xúc của người dân, chúng tôi vẫn phải cố gắng thực hiện (kèm theo văn bản báo cáo cho Hội đồng KH&CN tỉnh biết để điều chỉnh lại nội dung khi nghiệm thu), nhưng không thể hiểu nổi cơ chế tài chính về KH&CN của ta đang dựa trên cơ sở nào? Có nhiều bất cập như vậy có thể nêu ra. Liệu KH&CN Việt Nam có cất cánh được hay không khi mà còn nhiều bất cập và vướng mắc, đặc biệt là cơ chế tài chính?
Người ta cũng nói nhiều đến việc công khai đấu thầu các đề tài/dự án KH&CN, luôn hô hào cải tiến phương thức quản lý tài chính, nhưng thực tế hiệu quả vẫn còn thấp. Có nhà khoa học nào trên thế giới có thể biết được mình phải làm bao nhiêu thí nghiệm, tốn bao nhiêu vật tư, nguyên liệu và công xá để đạt được mục đích? Ấy vậy mà những người quản lý tài chính yêu cầu phải kê khai bao nhiêu lít hoá chất, bao nhiêu kilôoát giờ điện, bao nhiêu nhân công...? Sự lẫn lộn và đánh đồng giữa các loại hình NCKH đã làm cho không ít nhà khoa học thà đi dạy còn hơn nhận đề tài NCKH. Điều này xảy ra ở nhiều cấp, nhiều nơi, nhưng ở các địa phương là rõ nét nhất. Chẳng hạn, một chuyên đề nghiên cứu một chất nào đó, được quy định chi tối đa là 10 triệu đồng, không cần biết người nghiên cứu sử dụng phương tiện gì?
Hãy dồn họ vào chân tường để họ lao lên phía trước
Không chính thức, nhưng quan niệm trên đang tồn tại ở một số người có chức, quyền, làm công tác quản lý về KH&CN. Người ta luôn nói đến kinh tế thị trường và cho rằng kinh tế thị trường là giải pháp tối ưu để phát triển KH&CN nước nhà mà quên mất rằng ngay cả ở các nước tiên tiến hàng năm người ta đã đầu tư hàng ngàn tỷ USD cho KH&CN.
Trong một bài viết trước đây, tôi cũng đã kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước nên tìm hiểu thực trạng của các viện NCKH của nước ta để có những tiêu chí cần thiết cho việc đánh giá cũng như chiến lược đầu tư. Hiện tại, các nhà khoa học Việt Nam đang có gì trong tay để sống và làm khoa học?
Đã có nhiều người tài năng và đức độ phải từ bỏ niềm đam mê khoa học của mình để chuyển sang làm sản xuất kinh doanh hay làm thuê cho một công ty nào đó với niềm hy vọng khi có điều kiện sẽ quay lại làm NCKH, hay đóng góp cho nền KH&CN nước nhà. Một số khác chuyển sang các trường đại học dân lập, tự an ủi rằng, âu cũng là một cách đóng góp cho KH&CN.
Việc chuyển đổi các viện nghiên cứu sang cơ chế tự hạch toán là một việc làm cần thiết nhưng rõ ràng là cần một lộ trình và cơ sở khoa học. May thay, Bộ KH&CN đã có những điều chỉnh kịp thời. Tôi xin nêu một ví dụ, không phải ở Việt Nam, mà ở Đức: Khi nước Đức thống nhất, CHDC Đức cũng tồn tại khá nhiều viện nghiên cứu trong hệ thống Viện Hàn lâm Khoa học CHDC Đức và cũng có nhiều viện không hiệu quả. Người ta đã giải quyết vấn đề đó như thế nào? Trước tiên, họ rà soát lại tất cả các viện dựa trên những tiêu chí khá rõ ràng. Kết quả là họ đã chọn để giữ lại những viện mạnh, cần thiết, bổ sung thêm người và kinh phí. Những viện và tập thể yếu không được chọn, họ cho phép tồn tại theo từng giai đoạn như sau:
- Vẫn cấp kinh phí và cơ sở vật chất trong một số năm nhất định để các cơ sở này có điều kiện tự điều chỉnh.
- Không cấp kinh phí, chỉ miễn phí về cơ sở vật chất.
- Hoàn toàn không bao cấp.
Kết quả là các đơn vị này tự mình quyết định số phận mình, hoặc giải thể, hoặc chuyển sang một công ty nào đó, hoặc thành viện tư nhân nếu có tiền và tự hoạt động được.
Chúng ta cũng đang làm như vậy nhưng thiếu đồng bộ, dẫn đến những vướng mắc không đáng có. Vấn đề là cần thiết kế một lộ trình hợp lý kèm theo các giai pháp đồng bộ, phù hợp với điều kiện hiện tại củaViệt Nam cũng như cho tương lai 20-30 năm sau.
Gần đây, xuất hiện nhiều ý tưởng có thể nhanh chóng biến nền KH&CN Việt Nam trở thành tiên tiến bằng cách xây dựng nhiều cơ sở NCKH mới, với trang thiết bị hiện đại, với việc mời các chuyên gia giỏi về điều hành, với mức lương hàng trăm triệu đồng, trong khi cán bộ khoa học Việt Nam vẫn ngày ngày làm việc với đồng lương 2-3 triệu đồng/tháng. Cách giải quyết như vậy chỉ là việc làm tạm thời, không căn bản. Cần phải được trao đổi nhiều hơn trước khi trở thành chủ trương.
Đào tạo và sử dụng cán bộ trình độ cao
Để có một kỹ sư hay cử nhân, chỉ cần 4-5 năm. Để có một người có bằng thạc sỹ, chỉ cần thêm 2 năm nữa. Với cơ chế đào tạo của ta hiện nay, hàng năm có thể cho ra trường hàng ngàn thạc sỹ. Nếu cộng với số “bằng thật, học giả”, số lượng người có bằng cấp của ta không đạt vị trí nhất nhì thế giới thì mới là lạ.
Nhưng để có một nghiên cứu viên chính, theo quy định của Nhà nước là phải có không ít hơn 9 năm làm nghiên cứu viên. Như vậy, nếu một sinh viên giỏi, học liền một mạch lên thạc sỹ rồi đi làm, phải đến 34 tuổi mới trở thành một nghiên cứu viên chính, nhưng không phải ai cũng đạt tiêu chuẩn khi thi chuyển ngạch. Người đó chỉ làm việc thêm được 26 năm nữa đã về hưu (đối với cán bộ nữ, thời gian còn ít hơn). Từ đó rất dễ để nhận thấy rằng, hầu hết cán bộ NCKH của ta, độ tuổi chín muồi cho khoa học thường ở lứa tuổi 40-70.
Những vấn đề khác như cơ sở vật chất, lương bổng... tôi không đề cập ở đây, chỉ tính sơ thời gian đào tạo và thời gian sử dụng, đã thấy chúng ta rất lãng phí và không kinh tế. Chưa nói đến khá nhiều trường hợp, các cơ sở NCKH đã cố gắng đào tạo cán bộ trẻ bằng nhiều con đường khác nhau, với hy vọng khi học xong, họ sẽ về góp sức để đưa KH&CN nước nhà phát triển, nhưng kết quả thì không phải ai cũng chịu ở lại, đa số khi đã có bằng cấp, kinh nghiệm, thường ra đi và làm cho các đơn vị tư nhân hay công ty nước ngoài. Cứ như vậy, áp lực luôn đặt lên vai những người quản lý các cơ sở NCKH.
Một thực tế khác là kỹ sư, cử nhân ra trường trong những năm 70-90 của thế kỷ trước chất lượng hơn bây giờ. Tại sao? Vì ở những năm đó, cán bộ giảng dạy được đào tạo khá tốt, có trình độ, có tâm, có ý thức XHCN cao. Số cán bộ đó, khi vừa tròn 60 tuổi thường về hưu, những người ở lại chỉ là số ít. Bây giờ dạy theo kinh tế thị trường, thày dạy biến thành thợ dạy thì chất lượng giảm là điều không tránh khỏi. Tôi đã được chứng kiến một số giáo viên trẻ vẫn còn sử dụng giáo trình viết tay của các bậc tiền bối những năm 70-90, trong khi KH&CN ngày nay đã là KH&CN của thế kỷ XXI!
Giáo dục đại học ngày nay không gắn với NCKH, không phải vì không có chủ trương mà vì không có thời gian và cơ sở vật chất. Thày lo dạy sô, trò học chạy để thi, cơ sở vật chất chỉ là bàn ghế và máy chiếu.
Cùng nhau suy ngẫm
Nói về KH&CN Việt Nam, không thể chỉ lấy vài số liệu là đủ để đánh giá nó có hay không trên bản đồ thế giới. KH&CN của một quốc gia, trước hết phải phục vụ số đông nhân dân của nước mình. Khi mà đât nước còn nghèo, đời sống nhân dân còn khó khăn thì KH&CN cũng phải chia sẻ là điều đương nhiên. Cái chính là phải biết sử dụng có hiệu quả những gì đã và đang có, phải biết chắt chiu từng đồng - vì đó là mồ hôi, nước mắt của hàng chục triệu người dân, phải biết tôn trọng, thông cảm và sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả.
Tôi đã tổng kết các bài viết về nền KH&CN Việt Nam trên các trang báo điện tử gần đây và thu được gần 30 trang, tất cả đều có nội dung chung là “vì sao KH&CN Việt Nam không phát triển”, thậm chí có người còn cho rằng đó là một thất bại lớn. Phê phán thường rất dễ, nhưng gánh vác để cải thiện nó mới là khó. Những số liệu về các bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế quả là ấn tượng. Những số liệu đó đáng để cho chúng ta suy ngẫm, đặc biệt các nhà hoạch định chính sách KH&CN. Tuy nhiên, cũng phải tìm hiểu nguyên nhân của nó.
Thứ nhất, khi nói đến việc đăng báo ở nước ngoài, người ta quên rằng, đăng báo ở trong nước cũng khó không kém.Hãy đếm xem chúng ta có bao nhiêu tạp chí KH&CN cấp quốc gia và mỗi năm đăng được bao nhiêu công trình? Các nghiên cứu viên trẻ của chúng tôi muốn đăng một công trình, phải chờ có khi tới 1 hoặc 2 năm mà chưa chắc đã được đăng. Thậm chí, có những bài đã phải sửa đi, sửa lại, đã đóng tiền, nhưng vẫn “bặt vô âm tính”. Tạp chí của trường, đăng cho trường; tạp chí của viện đăng cho viện; thậm chí có những tạp chí đăng các bài báo khoa học nghiêm túc lẫn lộn giữa những thông tin gây cười, khiến những người có lòng tự trọng không muốn bài báo của mình nằm ở đó.
Thứ hai, đăng ở nước ngoài là rất khó. Những người đã sống và làm việc ở nước ngoài đều biết rằng, muốn được duyệtmột bài báo không dễ chút nào. Nếu bạn không có một người thầy giỏi, sửa và giới thiệu, sẽ rất khó để lọt vào diện được xem xét. Tiếng Anh cũng là một trở ngại lớn. Một số người sống và làm việc lâu ở những nước nói tiếng Anh còn có thể diễn đạt tốt bằng Anh ngữ. Những người dù có trình độ khoa học, nhưng tiếng Anh chỉ để đọc, giao tiếp thì sẽ khó khăn khi chuyển ý của mình cho người Anh - Mỹ hiểu. Nguồn cán bộ đầu ngành của chúng ta hiện nay hầu như được đào tạo từ Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu là chính, tiếng Anh chỉ là ngoại ngữ thứ hai. Gần đây, đã có nhiều cán bộ trẻ giỏi tiếng Anh nhưng lại chưa đủ kiến thức để viết bài.
Thứ ba, các công trình có chất lượng phải được kiểm định bằng các thiết bị đạt chuẩn và không chỉ một, mà phải cónhiều thiết bị. Khi không được kiểm định chắc chắn, người làm nghiên cứu khoa học chân chính không yên tâm để công bố là lẽ đương nhiên. Ai cũng biết, kể từ năm 2000 đến nay, chúng ta mới có tiền đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia với nhiều trang thiết bị đạt chuẩn. Tuy vậy, không phải nơi nào cũng phát huy hết hiệu quả của thiết bị.
Nếu xem xét tất cả những vấn đề nêu trên, chúng ta sẽ thông cảm hơn với những người làm khoa học ở Việt Nam, đặc biệt số cán bộ trẻ. Đừng dập tắt niềm đam mê của họ bằng những phán xét một chiều!
Vấn đề ít các bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế có thể giải quyết bằng cách tổ chức một bộ phận chuyên chọn lọc các bài báo và chỉnh sửa lại tiếng Anh cho hoàn chỉnh và xuất bản thông qua một số tạp chí Việt bằng tiếng Anh, với thời gian các tạp chí bằng tiếng Anh của người Việt đó sẽ thu hút và trở thành “quốc tế”. Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Ba Lan, Nga... đều làm như vậy. Tại sao chúng ta không học họ để khẳng định mình mà suốt đời cứ phải đi “xe ôm”?
Tóm lại, những gì đã xây dựng được trong thời gian qua của nền KH&CN Việt Nam không phải là yếu kém. Điều chúng ta còn thiếu là một đường băng, một cỗ máy hoàn chỉnh, một phi hành đoàn chất lượng và một đích đến cụ thể chứ không phải là một tầm cao không xác định với những đơn vị nhỏ lẻ, mạnh ai nấy làm.








