Suy nghĩ về bản sắc dân tộc
1. Nói “dân tộc” là nói một dân tộc nhất định, nói “bản” là nói cái thuộc về dân tộc đó, riêng của dân tộc đó. Tuy nhiên, sẽ hoàn toàn sai lầm nếu nghĩ rằng đó là cái riêng mà chỉ dân tộc này mới có, còn dân tộc khác không có. Ở đây, nhất thiết phải theo lý: riêng nằm trong chung và chung gồm riêng. Ngồi trước mặt chúng ta là một người Pháp, một người Nhât, một người Ấn một người Việt. Ai đã đi nhiều nước, tiếp xúc nhiều dân tộc, hoặc xem nhiều phim nhiều ảnh về thế giới, hoặc am tường nhân chủng học, đều có thể nhận ra đây là người Ấn, người Việt hay người Pháp, người Nhật. Rõ ràng, người da trắng, người da vàng …người thuộc dân tộc nào mang một số điểm riêng của dân tộc đó. Nhưng vẫn chung là về cơ thể đặc thù của con người khôn ngoan (homo-sapiens).
Yêu nước, bất khuất trước cường quyền ngoại bang là một tính trội (dominant) của dân tộc ta, được coi là BSDT ta. Nhưng đừng nghĩ rằng dân tộc khác không có như ta hoặc có mà kém cỏi hơn ta. Những cái ta có, các dân tộc khác đều có, và ngược lại. Vấn đề là tìm cho ra cái gì riêng của ta trong cái chung đó, cái chung đó biểu hiện thành cái riêng gì ở dân tộc ta.
2. Hoàn toàn sai lầm khi cho rằng nói dến BSDT, văn hoá truyền thống (VHTT) là chỉ nói đến cái tốt cái đẹp cái hay, không có hoặc nói đến cái xấu, cái dở, cái yếu, cái kém. BSDT, VHTT là của con người, chuyện con người. Nhân vô thập toàn. Con người không hoàn toàn là quỉ dữ cũng không hoàn toàn thánh thần. Kinh nghiệm nghìn đời tỏ rõ rằng ai quá muốn làm thành thần thì cuối cùng trở thành ma quỉ xấu xa. Cho nên, tìm tòi BSDT, VHTT, không chỉ liệt kê cái tốt, cái hay mà cả cái xấu cái kém cái yếu. Xin mạo muối nêu vài cái xấu cái yếu làm ví dụ. Lịch sử nước ta chưa có một vị nào sáng lập ra một lý luận, một học thuyết, một triết thuyết nào về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học nhân văn …Chúng ta chưa có một vị nào theo kiểu (chưa nói cỡ) Khổng Khâu, Thích Ca, Mặc Địch. Lão tử, Trang Chu, Aristote, Descartes, Kant, Curie …Khoá hư Lục là bình giảng về đạo phật, chưa phải là một triết thuyết về Phật giáo như tông phái Bồ Đề Đạt. Lê Quý Đôn là một nhà bác học trên cơ sở sưu tầm, sưu tập chú giải, chưa phải sáng lập, phát minh, phát kiến. Chúng ta có những nhà tài giỏi về vận dụng những lý luận đã có sẵn của người khác, mà chưa đưa ra được hệ thống tư tưởng quan điểm riêng của mình. Trần Đức Thảo hồi đại học ở Sorbonne đã được xếp vào vào loại “ giáo sư giảng tư tưởng riêng của mình”, cho nên, sinh viên vào lớp ông, đều phải là thạc sĩ triết học. Ông có được xem là một nhà tư tưởng của Việt nam chưa? Nếu được, thì lịch sử quốc gia hàng ngàn năm mới chỉ có một nhà lý luận, quả chưa đủ để nói tới BSDT, VHTT. Thấy được cái yếu đó, mới gắng sức phục nó, tạo điều kiện để nước ta có được những nhà lý luận có học thuyết riêng, trường phái riêng.
Hàng loạt sách báo và tường trình của người phương tây tới nước ta những thế kỷ trước và buồn thay là cả hiện nay - nói rằng ta có “thói ăn cắp vặt” (có một thời, có một số vị quá hăng, cứ cho mọi cái Tây viết đều là bậy bạ rác rưởi. Đúng, họ có những sai lầm do hạn chế hiểu biết của bản thân họ, của thời đại họ, nhưng họ viết là vì quyền lợi của tổ chức họ, đất nước của họ, cho nên, họ luôn cố gắng viết đúng với sự thật mà họ quan sát được. Họ quan sát dân ta là để giao tiếp sao cho họ có lợi, không bị thiệt hại, họ cũng không phịa). Thế thì, có đúng thói ăn cắp vặt là một nét xấu của dân ta không? Cần xác minh một cách khoa học, đừng tự ái vặt mà sổ toẹt. Há ta không thấy hiện nay có tệ nạn ăn cắp vật liệu, nguyên liệu, giờ chính quyền, giờ lao động, giáo trình, công trình nghiên cứu cho đến thó bài thơ, bài báo của người ta là của mình? Và tham nhũng là cái gì nếu không phải là một loại ăn cắp?
Tìm BSDT, VHTT, dứt khoát đừng quên tìm những cái xấu, yếu, kém của người Việt ta để khắc phục. Đấy cũng là tự phê.
3. Dân tộc ta bước vào thới đại mới với tư tưởng Mác-Lê Nin từ 1945 (trước đó chỉ trong một số rất ít người). Trong thời gian hơn nửa thế kỉ, BSDT cũng như VHTT có thay đổi, có cái được phát huy cực điệm, thật sáng giá, có cái mờ đi, có cái chìm hẳn, có cái mới nảy sinh. Thời kì này, BSDT, VHTT biến chuyển, có cái thêm, có cái tăng, và chính vì cũng có cái “giảm”, cái “mất”, nên bây giờ đặt ra bức thiết vấn đề BSDT, VHTT.
Cần khảo sát tỉ mỉ, nắm cho được quá trình biến chuyển này, nắm cho đầy đủ những cái hiện diện trong biến chuyển, biến chuyển ở dạng thức, mức độ, sắc thái của từng cái, tạo nên hình thù, mức độ biến chuyển chung.Từ đó, có một cái nhìn, một tiếp cận với BSDT, VHTT để nhìn nhận đúng hơn, rõ hơn.
4. Tuy nhiên, riêng thời kì đó chưa đủ để nói về BSDT, VHTT. Bởi vì BSDT, VHTT không thể nào hình thành trong hàng chục năm, mà phải hàng ngàn năm. Lịch sử nước ta dài hơn hai nghìn năm. Phải trở lại với cả quãng thời gian đó mới có một chỗ đứng để nhìn khái quát BSDT, VHTT. Vậy là phải xem trong thời gian dài dằng dặc đó, dân ta đã nghĩ suy, hành động, cảm xúc, đã có cách sống, lối sống theo những văn hoá tư tưởng nào, và thực tiễn sống đó đã nhào nặn tinh luyện lại các nền, các nét văn hoá tư tưởng hội nhập, từ đó tạo nên bản lĩnh bản sắc của mình. Xưa nay, chúng ta vẫn thường nói đến văn hoá bản địa Lĩnh Nam – Giao Chỉ - Giao Châu mà tiêu biểu là văn hoá Luy Lâu. Rồi ta có đạo Phật tiểu thừa, có đạo Khổng và Tống nho, có Lão có Trang. Rồi ở một mức độ nhạt hơn là đạo Hồi, đạo Thiên chúa, đạo Tin Lành… Tất cả có sự hoà nhập mà tạo nên BSDT, VHTT Việt Nam . Thực tế đó bật lên một số điều rất rễ nhận ra. Ví như rõ ràng dân ta có sự bao dung đại lượng thu nạp đối với mọi tư tưởng tín ngưỡng, không có kì thị tôn giáo - văn hoá - tư tưởng (thu nhập hoà nhập nhiều ít đậm nhạt, hoặc không thu nhận là chuyện khác, không phải là kỳ thị, đàn áp trừ diệt). Cần có công sức lâu dài nghiên cứu lại toàn bộ những vấn đề trên.
5. VHTT, BSDT thường được lưu trữ, lưu truyền, thực thi, biểu hiện ở nhiều lĩnh vực sinh hoạt, từ cái ăn cái mặc, trí đến cái vui chơi giải trí, đến cúng tế tín ngưỡng, lễ hội đến tục ngữ ca dao cổ tích, văn chương văn hoá dân gian. Ở đây thấy ngay một vấn đề nghiên cứu BSDT thì ra nhiều điều về VHTT, và nghiên cứu VHTT là thấy ra nhiều nét về BSDT. Cái ăn chẳng hạn. Ăn thứ gì chế biến ra sao, phối hợp như thế nào những nguyên liệu những gia vị, những món ăn, bữa ăn, với người cùng ăn, giao tế trong bữa ăn, quan hệ giữa ăn với uống, món ăn này với món ăn kia… một ví dụ nhỏ: món ăn của ta khác với món ăn của Trung Quốc, và suốt một nghìn năm bị đô hộ, ta vẫn giữ được món ăn của ta(và nhiều cái khác của ta nên vẫn là ta, không bị đồng hoá). Có “nghệ thuật” ăn riêng, dùng cái đó để tồn tại, không bị đồng hoá, há không phải BSDT, VHTT?
6. Khi đi vào nghiên cứu hàng loạt lĩnh vực đó, không nên tuỳ tiện đánh giá một cách tách rời cái này tích cực phải giữ, cái kia tiêu cực lạc hậu phải bỏ. Nhớ ông bà tổ tiên, gắn liền với thờ cúng, thờ cúng giỗ chạp liên quan đến tín ngưỡng về linh hồn liên quan tới người cõi âm, tới ma quỉ, ma quỉ liên quan tới địa ngục, thiên đường tới hoạ phúc, liên quan tới sợ quả báo nên gắng làm chuyện lành, không làm điều ác… Trong toàn bộ những cái đó, bỏ cái này liên quan tới mất cái khác, nhiều khi mất cả những cái tốt cái hay, như nhớ ơn tổ tiên, gắng làm điều lành. Cho nên, cần có một sự suy nghĩ hợp thể, toàn bộ, tránh cắt chặt riêng rẽ, rồi tuỳ tiện giữ hoặc bỏ. những lễ nghi lễ hội tồn thực chẳng hạn thường bị xem là mê tín dị đoan, lạc hậu , dâm ô, vốn chứa đựng nhiều quan niệm, khát vọng, ứng sử của dân ta đối với sự sống, sự sinh sôi nảy nở, sự trường tồn, sự hoà nhập vào yên nguyên. Trên bình diện lí luận về BSDT, VHTT, phải đề cập đầy đủ, còn trong thực tế sinh hoạt, không khôi phục hoặc khôi phục như thế nào là chuyện khác.
7. Một lĩnh vực khác có thể cung cấp cho ta nhiều thu hoạch về BSDT, VHTT, là tiểu sử, hành trạng của ông cha ta, kể cả của nhiều người đương thời. Từng vị cho ta một vài nét, tổng hợp lại, BSDT, VHTT, hẳn là hiện lên rõ rệt. Một Trần hưng Đạo với câu “Đánh giặc Nguyên năm nay nhàn hơn năm ngoái”, một hoàng đế Trần Thái Tông rời ngôi thiên tử lên núi làm sư với câu “bỏ ngai vàng như chút đôi giầy rách”. một Chu Văn An với Thất trảm sớ… cho đến một Nguyễn Đình Hiến đang làm Tri phủ tại chức mà thiết hương án cúng tế di hài Trần Quí Cáp bị yêu trảm tại Khánh hoà được người nhà rước về quê đi qua nơi ông hiến trị nghiệm. Và trong suốt một thế kỷ đấu tranh của dân tộc ta dành độc lập, dân chủ, biết mấy tấm gương ngời ngời BSDT, VHTT?
8. Con người khác nhau về đặc điểm nhân chủng - màu tóc, màu da, hình dạng mồm, mũi, chiều cao… là do khác nhau về gen. Có cái gen nào đó quyết định cái màu tóc, màu da nào đó. Có lý thuyết nói rằng tập tính này khác của sinh vật là do gen này gen khác quyết định. Có cả lí thuyết nói rằng kẻ giết người mang gen sát nhân. Thế thì ở cái gốc của bản sắc dân tộc, có những cái gen nào quyết định không?
Vấn đề khó nhất, cần quan tâm nhất, không phải là xác định chân dung bản sắc dân tộc, mà là BSDT, VHTT trong tình hình giao lưu hiện nay mang tính chất toàn cầu, ào ạt nhanh chóng, sống sượng. Trước đây, sau này, giao lưu vẫn có hai chiều: tiếp thu hộp nhập và đối kháng loại bỏ, với những nấc thang mức độ giữa hai cực. Trước đây, giao lưu là “tự nhiên nhi nhiên”. Đa số người Việt hiếu thảo với cha mẹ, tôn sư trọng đạo, cúng giỗ tổ tiên, có thể - chắc là vậy - xem đó là BSDT, VHTT. Giáo lí có chủ trương hợp như vậy, ví dụ về lễ giáo hiếu Vu Lan của đạo Phật, thì dân Việt tiếp nhận làm của mình. Gíáo lý nào không nhắc gì đến cha mẹ, thầy giáo, cấm cúng giỗ ông bà thì dân Việt không chấp nhận, xem đó là “vật lạ”. Không có quyền lực cơ quan nào chi phối đến việc này. Gia đình, gia tộc, họ mạc, xóm làng, quận huyện là những “pháo đài”, người dạy bảo nhau, nhắc nhở nhau, trông chừng nhau, giúp đỡ nhau, noi gương mà ứng xử…Bây giờ không còn những pháo đài như vậy nữa, không còn như xưa sức mạnh của thanh nghị, của đàm tiếu, của thị phi. Mà giao lưu như lốc xoáy. Lại có yêu cầu quyền lực lãnh đạo xã hội đứng ra cầm cân nảy mực, hướng dẫn cái nào nên hoặc không nên hội nhập làm yếu tố mới cho BSDT, VHTT. Ở đây có chuyện then chốt: mình phải tự hiểu rất đúng rất sâu về mình thì mới biết cái nào hợp hoặc không hợp với mình để tự bảo vệ và gia tăng nội lực BSDT của mình. Thu nhận và chối bỏ bậy bạ thì làm cho cơ thể - BSDT, VHTYT - mất sức đề kháng, mất sức tiêu hoá. Rất nhiêu thảm kịch xảy ra ở nhiều nước của châu lục nọ có nguồn gốc ở chỗ là họ đánh mất, xoá mờ căn cước BSDT, VHTT của họ, thậm chí đến ngôn ngữ mẹ đẻ cũng không giữ được, chỉ ham nói tiếng của những người đô hộ họ! BSDT, VHTT, giao lưu… là chuyện tồn vong của đất nước, của dân tộc, chứ không phải chuyện cao đàm khoát luận để thu lợi riêng.
Nguồn Xưa và Nay, số 95, tháng 7-2001.








