Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 13/03/2012 20:30 (GMT+7)

Sự phát triển văn hóa ở Nghệ Tĩnh, Thăng Long thời Nguyễn

1. Bối cảnh lịch sử nước ta ở thế kỷ XIX

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, thành lập triều Nguyễn, lấy niên hiệu là Gia Long. Về cơ bản, đến thời Nguyễn, Việt Nam đã trở thành quốc gia thống nhất về mọi mặt. Trên cơ sở thống nhất đó, được tạo dựng từ nhiều thế kỷ trước, nền văn hóa nước ta càng có điều kiện phát triển.

Thực tế, tình trạng kinh tế nông nghiệp suy yếu, ruộng đất chủ yếu tập trung trong tay địa chủ, vấn đề đê điều được triều đình bàn bạc thường xuyên song không mang lại hiệu quả. Chính sách hạn chế sự phát triển thương nghiệp của triều Nguyễn đã không tạo ra những nhân tố mới cho kinh tế thương nghiệp nước ta. Đời sống nhân dân lâm vào tình cảnh cùng cực, nông dân bị bần cùng hóa đã gia nhập vào đội quân đông đảo chống lại triều đình. Vì vậy, hơn 30 năm đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn luôn phải vất vả đối phó với các phong trào khởi nghĩa nông dân.

Trong bối cảnh chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng, triều Nguyễn vẫn cố gắng duy trì Nho giáo làm công cụ để cai trị xã hội. Nho giáo được triều Nguyễn phục hưng trên nhiều lĩnh vực của đời sống: giáo dục, thi cử, văn hóa,... Song cũng chính lúc đó, triều Nguyễn không thể phủ nhận được sự phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng của Thiên chúa giáo trong các tầng lớp cư dân. Khi làn sóng văn minh của chủ nghĩa tư bản phương Tây tràn sang khu vực Á Đông, Nho giáo đã dần mất đi sức hấp dẫn của nó đối với nhân dân Việt Nam . Trong giới văn sĩ nước ta đã hình thành những xu hướng tư tưởng khác nhau. Tiêu biểu là 3 xu hướng: hoài cổ, tiếc nuối quá khứ (tiếc nhớ triều Lê), ủng hộ triều Nguyễn và sự đả kích gay gắt các tầng lớp vua quan phong kiến.

Đến thế kỷ XIX, kinh đô của Việt Nam không còn là Thăng Long mà được thay bằng kinh thành Huế. Triều Nguyễn lại đặc biệt quan tâm đến 2 khu vực: từ Thanh - Nghệ - Tĩnh đến Thừa Thiên Huế - đất khởi nghiệp của chúa Nguyễn; và khu vực từ Huế vào Nam là vùng đất có khối cư dân đông đảo ủng hộ nhà Nguyễn. Sự quan tâm đó thể hiện rất rõ trong chính sách giáo dục, thi cử. Các vua Nguyễn bao giờ cũng ưu tiên số lượng thí sinh thi và lấy đỗ ở hai khu vực này nhiều hơn. Bối cảnh lịch sử như vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển văn hóa nước ta ở thế kỷ XIX nói chung và Thăng Long, Nghệ Tĩnh nói riêng.

2. Một số nét văn hóa tiêu biểu của Nghệ Tĩnh, Thăng Long thời Nguyễn:

a) Văn học:

Văn học thế kỷ XIX thể hiện rõ nét bối cảnh lịch sử xã hội đương thời. So với thời kỳ trước, nội dung và hình thức thể hiện đã có sự biến chuyển. Thông qua tác phẩm, các tác giả vạch trần những thói hư tật xấu của chế độ phong kiến, sự bất lực của chính họ trước thời cuộc và khát vọng thay đổi thực trạng xã hội. Lần đầu tiên trong văn học, yếu tố con người được đề cập đầy đủ, rõ nét với những giá trị mới: Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, khát vọng được yêu thương và quyền được sống hạnh phúc.

Các tác giả dân gian ở Nghệ Tĩnh đóng góp vào nền văn học bằng nhiều tiếng nói đa dạng, phong phú. Điển hình trong nguồn văn học thành văn là sự đan xen của các luồng tư tưởng khác nhau, tạo nên sự đa dạng trong việc thể hiện tâm tư tình cảm của các tác giả. Xu hướng đầu tiên thể hiện rõ nhất là sự tiếc nuối những giá trị văn hóa, truyền thống đã mất của một số nhà thơ. Nguyễn Huy Hổ (1788-1841) người làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn, Nghệ Tĩnh. Ông là con của Nguyễn Huy Tự (tác giả Truyện hoa tiên) với Nguyễn Thị Đài, là tác giả của "Mai Đình mộng ký". Tác giả ghi lại giấc mơ của Nguyễn Huy Hổ trong một lần du ngoạn sông Lam, không may lạc vào một lâu đài, ông nói chuyện với một góa phụ đã 10 năm; hai người hẹn sẽ gặp lại nhau sau khi tác giả đã công danh thành đạt. Tác phẩm thật sự là: "Một áng văn chương tuyệt diệu, không lời nào non, không vần nào ép... Tác giả đặt câu với những chữ rất thường mà ý tứ dồi dào, lời lẽ ly kỳ, bóng bẩy, lưu loát,..."1.

Bà Huyện Thanh Quan (1804 - 1847), một phụ nữ đất Thăng Long nổi tiếng với các bài thơ chữ Nôm: "Thăng Long thành hoài cổ", "Qua đèo Ngang", "Chùa Trấn Bắc", "Bạch Đằng Giang", "Chiều hôm nhớ nhà",... đã thể hiện nỗi lòng xót xa của tác giả trước bối cảnh xã hội thế kỷ XIX.

Hay Vũ Tông Phan, một sỹ phu quê gốc Hải Dương, sống tại Thăng Long (1800 - 1851) đã thể hiện tư tưởng hoài cổ, luyến tiếc ở những vần thơ:

Giặc Ân gieo nạn thuở sơ khai

Một trận Vũ Ninh động đất trời

Núi Sóc ngày nào về cưỡi gió

Uy danh Lãng Bạc để muôn đời

(Đền Sóc Thiên vương ở Minh Tảo)2

Cùng thời điểm đó là xu hướng của một số văn sỹ đả kích chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát, sâu mọt. Trong đó có các đại diện tiêu biểu như: Nguyễn Du, Hoàng Phan Thái, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,...

Nguyễn Du (1766 - 1820) là tác gia lớn về văn học của quê hương xứ Nghệ. Ông nổi tiếng với những sáng tác về chữ Hán, chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều, người đọc thấy rõ bộ mặt của chế độ phong kiến đầu triều Nguyễn với tất cả những bất công của nó. Với 3.254 câu thơ, ông vạch trần mặt trái của vua quan phong kiến, chế độ coi đồng tiền là sức mạnh vạn năng, phá hủy những giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội.

Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) là nhà thơ đặc biệt quan tâm đến đời sống nhân dân thời bấy giờ. Qua những điều mắt thấy tai nghe trên đường đi, ông đã phản ánh rất rõ nỗi thống khổ của quần chúng nhân dân lao động vì ách sưu cao, thuế nặng, đồng thời bộc lộ sự bất lực của mình trước thời cuộc:

Bắc Kỳ đương khổ lụt

Cõi Tây vẫn còn chiến tranh

Kinh truật có ích gì?

Đêm khuya nhìn lên sao Bắc Đẩu3

Dù mang tâm trạng chua xót, nhưng hầu hết các nhà Nho vẫn giữ một tấm lòng yêu nước sắt son.

Ở thời Nguyễn, giá trị nhân văn của con người và quyền được yêu thương, được hưởng hạnh phúc được các tác giả đề cao. Chủ đề này tập trung ở các bài thơ của nữ sỹ Hồ Xuân Hương. Tác giả bộc lộ khát vọng được sống hạnh phúc của người phụ nữ qua những vần thơ mạnh mẽ: "Chém cha cái kiếp chồng chung/ kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng"...

Như vậy, trên lĩnh vực văn học, các tác giả Nghệ Tĩnh, Thăng Long đều hòa mình trong không khí của bối cảnh đương thời, nói lên khát vọng đổi thay thực trạng xã hội, đề cao quyền tự do, hạnh phúc của con người. Văn học thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, sự xót thương và cảm thông của các tác giả đối với nhân dân lao động.

b) Nghệ thuật:

Trong lịch sử phát triển, Nghệ Tĩnh là nơi ít chịu ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa bên ngoài. Về cơ bản, tính chất bản địa của nền văn hóa vẫn được bảo tồn mạnh mẽ cho tới tận thế kỷ XIX. Tính bản địa thể hiện cụ thể trong nghệ thuật của văn hóa Hồng Lam.

Loại hình mỹ nghệ trang trí đồ dùng đã có ở thời kỳ trước, đến nay vẫn tiếp tục phát triển, phổ biến hơn là các loại đồ dùng trong đền, miếu: lư hương, bàn ghế, theo công thức: mai, trúc, rồng, phượng, bát tiên,... Có thể thấy, cấu trúc rất vững chắc, đường nét khỏe mạnh tạo nên khối lớn.

Tranh vẽ thời Nguyễn phổ biến trên tường ở một số kiến trúc như đền Ông, chùa Diệc, đền chùa ở Cẩm Xuyên, Can Lộc, mang công thức chung chung, khô và lạnh. Trong khi đó, tượng thần ở đền, miếu lại mang đậm tính địa phương; tượng Phật ở đền Tiên Đồng của dân tộc Thổ (Tân Kỳ) tạc bằng gỗ, xếp chữ ngũ, 2 tay phật lần tràng hạt; tượng quan Hoàng Mười sơn màu vàng bóng trong đền Củi,... Ngoài những bức phù điêu bát tiên tứ quý, còn có một số miêu tả cảnh sinh hoạt lao động của người dân. Có những cảnh kéo co, cày cấy, chăn trâu ở đình Hoành Sơn và Tam Tạng (huyện Nam Đàn) thể hiện tính chất đồng nội rõ rệt.

Kiến trúc ở Nghệ Tĩnh thể hiện trên các loại hình thành quách, đền miếu, nhà cửa,... Nghệ Tĩnh có 182 thành lũy lớn nhỏ: thành Lam (Hưng Nguyên), Nam (Con Cuông), Trài (Diễn Châu),... Cấu trúc thành bên ngoài có ao sâu, bờ tre bảo vệ; nhiều thành có cạnh vuông thẳng góc, thành kiểu chữ A có nhiều tử giác (góc chết) thẳng tắp. Thành Phượng Hoàng Trung Đô được Quang Trung xây dựng năm 1788, đến các thời vua Gia Long, Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, thành tiếp tục được trùng tu (Yên Trường); thành cổ Nghệ An được Minh Mệnh xây dựng năm 1831 với diện tích 420.000m2, xung quanh có hào rộng, chủ yếu bằng đá ong theo kiểu Vô Băng.

Đó là những công trình quy mô, đúc kết kinh nghiệm của cha ông ta trên nhiều mặt như: quân sự, kiến trúc, thẩm mỹ. Nghệ thuật tương đối giản dị, mộc mạc, không hoa mĩ, rất phù hợp với vùng đất và con người Nghệ Tĩnh.

Khác với Nghệ Tĩnh, Thăng Long là miền đất hội tụ, lan tỏa văn hóa, chủ yếu nhất là nghệ thuật. Nghệ thuật tạo hình được xem là thành công nổi bật của nghệ nhân Thăng Long. Các công trình chùa chiền là minh chứng cụ thể: Năm 1842, triều Nguyễn cho xây chùa Liên Trì bên Hồ Gươm; năm 1865, tu tạo đền Ngọc Sơn, dựng đài Nghiên, tháp Bút,... Đặc biệt, kiến trúc Thăng Long đã được thể hiện rõ nét qua những công trình khai quật khảo cổ học ở khu vực Ba Đình. Có rất nhiều cung điện với diện tích từ 5,8 - 6m, những tòa lầu lục giác với những nét chạm trổ tinh xảo tài hoa, những cống dẫn nước xây bằng gạch chuyên dụng. Trong đó, vật liệu gạch ngói được sử dụng có khắc chữ Vĩnh Ninh Trường đã chứng tỏ nơi đây thu hút được số lượng thợ khéo tay đông đảo ở các miền đất nước, trong đó có Thanh - Nghệ - Tĩnh.

c) Giáo dục:

Đến thế kỷ XIX, Thăng Long vẫn được đặt làm trường thi của Bắc Thành. Nơi này đã thu hút khối lượng Nho sinh đông đảo đến ôn luyện và chờ ngày ứng thi. Là vùng đất nổi tiếng với truyền thống khoa bảng, nhất là vùng Phú Thị, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (hay gọi là Sủi, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội) đã cung cấp một số lượng không nhỏ các Nho sĩ trí thức cho triều đình. Vùng đất này đã sản sinh ra nhân tài thơ văn Cao Bá Quát (1808 - 1854, gốc Thanh Hóa), với tư tưởng nhân đạo sâu sắc, được coi là danh sĩ của đất Thăng Long.

Nghệ An từ lâu là vùng đất có truyền thống hiếu học. Một số tên làng như: Bút Trận, Bút Điền, Văn Vật, Văn Tập... ở Diễn Châu; Tam Khôi, Văn Thai ở Quỳnh Lưu đã phản ánh truyền thống trọng học, trọng khoa cử ở các địa phương trên nói riêng và Nghệ An nói chung. Theo thống kê trong "Quốc triều Hương khoa lục" của Cao Xuân Dục từ khoa thi Đinh Mão (1807) đến khoa thi Tân Mão (1891) tổng cộng là 32 khoa thi lấy đỗ 615 người. Đội ngũ Nho sĩ đỗ đạt dưới triều Nguyễn khá đông đảo, nhiều người giữ trọng trách ở triều đình và các địa phương.

d) Phong tục:

Chế độ phong kiến nhà Nguyễn rơi vào khủng hoảng về mọi mặt khiến đời sống nhân dân càng thêm cực khổ. Nhưng chính bối cảnh đó lại khiến người dân xứ Nghệ trở nên gắn bó thân thiết với nhau hơn. Họ thường tổ chức thành những hội làm việc, lợp nhà, cấy gặt, phường ghép sân, ghép mảng, chăn trâu bò,... Họ thay phiên giúp đỡ nhau khi có mùa màng. Nếu ai không tuân thủ quy tắc đã đề ra của hội thì sẽ trở thành người đơn độc trong làng xóm. Đây là nét đẹp văn hóa còn lưu giữ được ở địa phương, thể hiện tinh thần cộng đồng thực sự của cư dân xứ Nghệ.

Về tinh thần đoàn kết này, có thể thấy nét tương đồng trong các làng nghề truyền thống ở Thăng Long. Các làng như: gốm Bát Tràng, làng hoa Ngọc Hà, làng Láng trồng rau xanh, làng Vòng làm cốm,... dù nền kinh tế đã bị những yếu tố mới của chủ nghĩa tư bản xâm nhập song họ vẫn giữ được nét đặc trưng truyền thống của mình. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt so với Nghệ Tĩnh, là đến thế kỷ XIX văn hóa, tư tưởng ở Thăng Long không hoàn toàn mang tính chất thuần nhất, mà có sự pha tạp, xen kẽ giữa ý thức hệ của các tầng lớp cư dân khác nhau. Nhất là thương nhân, thợ thủ công ở Thăng Long, do tiếp xúc sớm với nền kinh tế hàng hóa phương Tây, khi kỷ cương của chế độ phong kiến đã không còn sức mạnh như trước nữa, họ nhanh chóng trở thành những thành phần tiêu biểu cho lối sống "đô thị hóa". Nhưng phong tục của cư dân Thăng Long vẫn thể hiện được sự khéo tay, hay làm và nét thanh lịch vốn có từ xưa.

3. Một số nhận xét:

- Trong bối cảnh lịch sử đất nước đầy biến động, chế độ phong kiến khủng hoảng, nhà Nguyễn từng bước đầu hàng chủ nghĩa thực dân, văn hóa Nghệ An, Thăng Long một mặt vừa phản ánh chế độ, mặt khác vừa thể hiện tính chất bản sắc văn hóa vùng miền rõ rệt. Dù mang giọng điệu châm biếm với những hình thức thể hiện khác biệt nhưng văn thơ của nhà Nho là tiếng nói phát ra từ nỗi niềm chua xót trước tình cảnh khổ cực của người dân lao động, thể hiện tấm lòng yêu nước tha thiết, khát vọng xây dựng một xã hội công bằng, tốt đẹp. Các tác phẩm thơ văn đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn học nước nhà.

- Do tiếp thu, ảnh hưởng nhiều yếu tố văn minh phương Tây trong giai đoạn giao thời giữa cái cũ và cái mới, nghệ thuật của Nghệ An, Thăng Long có sự pha trộn nhiều loại hình khác nhau. Tuy nhiên, nét nổi bật ở nghệ thuật kiến trúc Nghệ An đó là theo một công thức chung chung, sắc màu khô, lạnh. Còn ở Thăng Long, sắc thái của kiến trúc không bó hẹp trong công thức định sẵn, do vậy nó dễ dung hòa các yếu tố kiến trúc ở các địa phương khác nhau. Có thể khẳng định, nghệ thuật của Thăng Long có "xu hướng mở" mạnh hơn.

- Trong không gian nước Việt Nam vào khoảng thời gian đầu thế kỷ XIX, văn hóa Nghệ An và Thăng Long có sự giao thoa rõ rệt. Hướng giao thoa chủ yếu là từ phía Nghệ Tĩnh đối với Thăng Long, hay nói cách khác là "từ ngoài vào trong". Các công trình kiến trúc của Thăng Long đã chứng minh cho tài năng khéo léo của nghệ nhân xứ Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đặc biệt, trong văn học, yếu tố tương đồng của hai vùng rất rõ. Xứ Nghệ đã góp cùng Thăng Long tiếng nói đả kích chế độ phong kiến đương thời. Thăng Long lại trở thành hiện thực khơi nguồn cảm hứng cho các nhà thơ. Nếu như không có những cảnh đẹp ở Tây Hồ, cuộc sống da dạng ở chốn đô thành, có lẽ Nguyễn Du sẽ không làm nên những áng thơ miêu tả tuyệt tác trong Truyện Kiều.

- Như vậy, có thể thấy văn hóa Nghệ Tĩnh là một trong những yếu tố để Thăng Long hội tụ và phát triển, tạo nên sắc thái đa dạng cho vùng đất được coi là nghìn năm văn hiến của dân tộc².

Chú thích:

(1) Mai Đình mộng ký, Nguyễn Huy Hổ, Nxb Song Nhi, Hà Nội, 1951, tr.13 - 14

(2) Vũ Tông Phan với văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001, Tr.81

(3) Cao Bá Quát, danh sĩ đất Thăng Long - Hà Nội, Nguyễn Minh Tường, Nxb Quân đội Nhân dân, 2000, tr.79.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.