Sự hình thành tinh thần khoa học
Thuộc dự án Tủ sách tinh hoa của Nhà xuất bản Tri thức, sách có 12 chương thì ngoài hai chương mở đầu và kết luận, triết gia Pháp Gaston Bachelard (1884-1962) dành 10 chương cho 10 chướng ngại nhận thức khác nhau. Để tìm ra những chướng ngại đó và tìm hiểu qua cơ chế nào đã tác động đến việc nghiên cứu khoa học, Bachelard đã dựa trên sự phân tích một thư tịch đồ sộ của các tác giả tiền khoa học, và ngay cả của những nhà khoa học tiên phong lớn như Buffon, Descartes, Franklin, Lavoisier, Volta... trong chừng mực mà tư duy khoa học của họ vẫn chưa thoát ra hẳn khỏi những chướng ngại. Chính vì thế, qua đó người đọc cũng khám phá những nét rất thú vị của tư tưởng tiền khoa học tại Âu Tây, những nét này không khỏi khêu gợi sự liên tưởng về các dấu vết hiện nay vẫn còn nằm sâu trong nền văn hoá này; cũng không kém thú vị khi người ta nghĩ đến những tương đồng với nhiều nét của tư duy Á Đông, có tính tiền khoa học khá rõ rệt.
Phân tích của Bachelard sử dụng công cụ lý luận của phân tâm học, phân tâm luận của Bachelard mở rộng phân tâm luận của Freud theo nghĩa Freud chỉ nghiên cứu phân tích tâm lý trong quan hệ giữa người với người, Bachelard đem những phương pháp phân tâm luận áp dụng cho quan hệ giữa người và tự nhiên.
Ngoại trừ những trường hợp đơn lẻ, hai thí dụ được Bachelard tập trung mổ xẻ là ngành giả kim - hoá học, và sự phát triển của điện học.
Trong mười chướng ngại nhận thức, có thể gom lại bốn chướng ngại đầu tiên, từ Chương II đến Chương V là: 1) Chướng ngại của kinh nghiệm trực quan; 2) Chướng ngại của hiểu biết tổng quát; 3) Chướng ngại của ngôn ngữ; và 4) Chướng ngại của hiểu biết thống nhất và thực dụng. Có lẽ chúng đều đi đến từ rất sâu thẳm trong quá trình hình thành con người: nhận diện thế giới vật chất qua kinh nghiệm thực tiễn, mô tả nó qua ngôn ngữ rồi chịu ảnh hưởng ngược lại của ngôn ngữ, và khái quát hoá quá sớm.
Chương VI nói về 5) Chướng ngại duy thể chất,có lẽ đặc thù hơn trong một nền văn hoá tiếp thu từ Hy Lạp: bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của một thể chất. Người ta không đặt nặng hoặc chưa hình thành rõ rệt ý tưởng về hiện tượng như một quan hệgiữa các thực thể.
Trong bốn chương tiếp theo từ VII đến XI: 6) Phân tâm luận về người duy thực; 7) Chướng ngại vật linh; 8) Huyền thoại về sự tiêu hoá; và 9) Libido và hiểu biết khách quan; tác giả vận dụng những phương pháp của phân tâm học để nêu rõ tại sao có những sai lạc trong những tiếp cận mang tham vọng khoa học nhưng không đạt được tính khoa học cần thiết: đó là do ảnh hưởng bị giấu kín của những động lực có tính bản năng của con người, như bản năng chiếm lĩnh, sự phóng chiếu vật linh, bản năng đói, và libido.
Chương XI, 10) Những chướng ngại cho sự hiểu biết định lượng, đề cập đến hiện tượng định lượng hoá quá đà, thành vô nghĩa; mở rộng ra, đó là ý hướng tuyệt đối hoá việc áp dụng các quy luật khoa học. Có thể hiểu đây là trường hợp sự hiểu biết khoa học đã cũ có thể trở thành một chướng ngại cho một nhận thức khoa học mới.
Tác phẩm này chủ yếu nói về những vùng tối, vùng phủ bóng của những chướng ngại nhận thức. Bachelard xoáy mạnh vào giai đoạn lịch sử mà những chướng ngại sắp được vượt qua, nhưng ít khi trả lời câu hỏi: “vượt qua như thế nào?”. Theo thiển ý, mỗi lần “vượt qua” là một hành động sáng tạo đặc thù không thể mô tả ngắn gọn, vượt qua chướng ngại để đến vùng sáng của khoa học cần những tác phẩm khác; “tinh thần khoa học là như thế nào?” chỉ được nhắc lại rất ngắn gọn trong tác phẩm này. “Lời phi lộ”, và phần đầu của “Đề cương” làm công việc đó một cách rất súc tích, vì vậy tương đối khó nắm bắt. Có lẽ bạn đọc không quen với lịch sử khoa học không nên nản lòng, đoạn đầu của cuốn sách này cần được đọc trở lại nhiều lần trong khi đọc những chương sau, vùng tối của bức tranh có thể sẽ phần nào làm rõ nét hơn vùng sáng chăng.
Tuy nhiên, cũng cần biết thêm lịch sử khoa học về phía ánh sáng, để hiểu rõ hơn tác phẩm. Chẳng hạn, đoạn mở đầu của “Lời phi lộ” sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại câu nói của Gallilei có đại ý: “ Tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán học”. Ngay sau đó, “ sự thiếu hụt” mà biểu hiện toán học có thể bao hàm, và “ dẫn đến những quan hệ cơ bản sâu sắc hơn”... sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta lấy làm thí dụ thuyết tương đối hẹp đã nói tới ở trên. Mặc dù hai tiền bối Lorentz và Poincaré đã phát triển đại bộ phận mô hình toán học, nhưng họ vẫn đứng trong vùng phủ bóng của chướng ngại nhận thức, chướng ngại đó chính là khái niệm ête, mà người tuổi trẻ Einstein đã vượt qua bằng cách triệt tiêu hoàn toàn. Lorentz và Poincaré đã biết “ cái như thế nào thuần hiện tượng” nhưng chỉ Einstein mới trả lời được về “ cái tại sao toán học”. Và đó là phê phán của Bachelard về thái độ thực chứng luận giáo điều, trước mọi hiện tượng vẫn rao giảng (đại ý) “ khoa học chỉ trả lời câu hỏi: như thế nào? chứ không hề nói tại sao”. [1]
Nếu tư duy con người cá thể phát triển theo một mô hình thu nhỏ của lịch sử tư duy của loài người thì những chướng ngại nhận thức mà Bachelard chỉ ra cho khoa học của thế kỷ 18 vẫn còn trong tâm lý con trẻ (và ít nhiều trong cả những người không có một hiểu biết vững vàng về tinh thần khoa học hiện đại) ngày nay. Do đó, tác phẩm của Bachelard không chỉ có giá trị nhận thức luận, mà nó còn có giá trị bổ túc kiến thức rất cụ thể cho ngành sư phạm, cho các thầy giáo tiểu học và trung học, cho những người có trách nhiệm truyền thông về khoa học. Tựa đề Sự hình thành tinh thần khoa họccủa tác phẩm phải được hiểu theo hai ý nghĩa, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa sư phạm.
[1]Đây là quan điểm của Auguste Comte, Comte nêu ra ý này để phân biệt thái độ thực chứng với thái độ siêu hình ở bình diện sâu nhất, là bình diện bản thể. Ngoài ra, Comte phân chia khoa học thành nhiều bộ môn độc lập và có những quy luật cơ bản riêng. Các quy luật cơ bản không thể giải thích, nhưng các hiện tượng trong mỗi bộ môn khoa học được giải thíchbằng các quy luật cơ bản. Nhưng vật lý học, hoá học, sinh học mà Comte coi là độc lập thì ngày nay không còn độc lập nữa. Những quy luật mà Comte tưởng rằng cơ bản trong hoá học đã trở thành những hiện tượng giải thích được bằng các quy luật cơ bản của vật lý học...