Quyền tác giả Việt Nam - 20 năm nhìn lại
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả
Sau nhiều năm cả dân tộc thực hiện các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhà nước ta đã bắt tay vào công việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về quyền tác giả. Ngày 14/11/1986, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 142/HĐBT quy định về quyền tác giả. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên điều chỉnh các quan hệ về quyền tác giả tại Việt Nam. Năm 1995, Bộ Luật dân sự được tổ chức, nghiên cứu, xây dựng công phu dưới sự chủ trì của Bộ Tư pháp, trong Phần 6 có một chương riêng quy định về quyền tác giả. Bộ Luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 là bước phát triển mới rất quan trọng của hoạt động lập pháp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả và quyền liên quan nói riêng. Bộ Văn hoá-Thông tin đã tổ chức nghiên cứu, soạn thảo phần quyền tác giả và quyền liên quan theo đúng tiến độ của dự án do Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì. Với thời gian chuẩn bị chưa đầy 11 tháng của năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội thông qua. Một số văn bản hướng dẫn cũng được soạn thảo và ban hành kịp thời ngay sau khi Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực. Các văn bản trên là sự tổng kết quá trình bảo hộ, kế thừa các giá trị được kiểm nghiệm trong thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này ngoài việc đáp ưúng yêu cầu thúc đẩy sự nghiệp bảo hộ tài sản trí tuệ, còn góp phần kết thúc đàm phán gia nhập WTO của nước ta. Là quốc gia thuộc diện các nước đi sau về bảo hộ quyền tác giả, nhưng chúng ta lại được thừa hưởng các giá trị chuẩn mực quốc tế trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Có thể tự hào khẳng định rằng, hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan về cơ bản đã được hình thành đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế, tạo hành lang pháp lý an toàn khuyến khích tiềm năng sáng tạo, bảo vệ tài sản trí tuệ của công dân được kết tinh trong các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư, đáp ứng các yêu cầu hội nhập.
Hoạt động thực thi
Để đưa pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan vào cuộc sống, nhiều hội nghị triển khai, lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, hội thảo quốc gia và quốc tế đã được tổ chức cho các đối tượng khác nhau, từ giới sáng tạo đến nhà sử dụng và đại diện công chúng hưởng thụ. Hầu hết cán bộ, công chức trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý, thực thi ở Trung ương và địa phương đã tham gia các chương trình này. Các hội nghị tổng kết, hội thảo thực thi, giới thiệu Luật sở hữu trí tuệ ở lĩnh vực báo chí, xuất bản, điện ảnh, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, ghi âm, chương trình máy tính… đã đánh giá thành tựu, chỉ ra các tồn tại và nguyên nhân, đề xuất giải pháp khắc phục. Bộ Văn hoá-Thông tin đã nhận được sự phối hợp tích cực từ Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao… và UBND các tỉnh/thành phố trong hoạt động thực thi. Công tác tuyên truyền pháp luật, giới thiệu hoạt động thực thi được tăng cường với sự hỗ trợ đặc biệt của các cơ quan thông tấn báo chí đã góp phần thúc đẩy thực thi, bảo hộ có kết quả hơn ở mỗi lĩnh vực. Các hoạt động trên đã góp phần nâng cao nhận thức, tri thức về pháp luật cho các đối tượng, để từ đó tạo nên những thành tựu ban đầu rất đáng khích lệ.
Nhằm thúc đẩy các hoạt động tự bảo vệ quyền của các văn nghệ sỹ và trí thức, với kinh nghiệm đuợc tiếp thu từ các quốc gia có nền công nghiệp bản quyền phát triển, nhà nước đã bảo trợ cho sự ra đời của hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan. Đây là mô hình về hệ thống thực thi lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Các chuyên gia của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Hiệp hội Quốc tế các nhà soạn nhạc và soạn lời (CISAC), Liên minh Quốc tế các nhà sản xuất bản ghi âm (IFPI) đã đến Việt Nam để tư vấn và truyền bá những kiến thức cơ bản về hệ thống này. Sau nhiều năm chuẩn bị, nhà nước đã cho ra đời 3 tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan, gồm Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc, Trung tâm Quyền tác giả văn học và Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam. Hầu hết các nhạc sỹ Việt Nam (hơn 1.000 người) phần nhêìu các nhà văn( trên 400 người) đã ký hợp đồng uỷ thác quyền cho 2 tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả âm nhạc và văn học. Các tổ chức quản lý tập thể đã và đang có nhiều hoạt động để bảo vệ quyền của người uỷ thác theo quy định của pháp luật. Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc đã rất nỗ lực trong các hoạt động cấp phép sử dụng, thu và phân phối lại tiền bản quyền cho các nhà soạn nhạc và soạn lời. Với 5 hoạt động, Trung tâm đã thu được gần 8 tỷ đồng từ việc sử dụng tác phẩm ở các lĩnh vực xuất bản, biểu diễn, ghi âm, phát sóng. Riêng năm 2006 đã thu trên 4 tỷ dồng để phân phối lại cho các nhà soạn nhạc, soạn lời. Hiện Trung tâm đã ký hợp dồng với các tổ chức tương ứng của nước ngoài để bảo vệ quyền lợi lẫn nhau tại 16 quốc gia, vùng lãnh thổ. Triển vọng thu tiền bản quyền của Trung tâm từ việc sử dụng tác phẩm âm nhạc ở các lĩnh vực mới được quy định cụ thể trong Luật sở hữu trí tuệ, như nhà hàng, siêu thị, khách sạn, giao thông công cộng, dịch vụ bưu chính viễn thông, internet, dịch vụ karaoke và các địa điểm có hoạt động thương mại trong các năm tới sẽ là rất lớn.
Với ý thức tự bảo vệ quyền, nhiều nghệ sỹ, trí thức, các doanh nghiệp đã nộp hồ sơ đăng ký xin cấp giấy chứng nhận. Kể từ năm 1986 đến nay, Cục Bản quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật đã cấp trên 14.000 Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan với hơn 22.400 tác phẩm cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nhiều vụ tranh chấp đã được các bên tự giải quyết, nhiều vụ đã được các cơ quan hành chính xem xét, xử lý nghiêm minh, trên 20 vụ án về quyền tác giả đã được giải quyết tại toà dân sự.
Quyền tác giả trong hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể khẳng định rằng, nước ta đã có những bước hội nhập kinh tế quốc tế chủ động và tích cực. Ba hiệp định song phương, bao gồm Hiệp định Thiết lập quan hệ quyền tác giả giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ, Hiệp định Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Thuỵ Sỹ và Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã có hiệu lực trong các năm từ 1987 đến nay. Việt Nam đã là thành viên của 4 Điều ước quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan, bao gồm: Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; Công ước Berne bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm; Công ước Brussels bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá; Công ước Rome bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng. Tháng 11/2006, khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đòng thời có nghĩa vụ thực hiện Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Các điều ước quốc tế song phương và đa phương nói trên đã đưa Việt Nam vào sân chơi quốc tế với luật pháp công khai, minh bạch. Sự tác động của nó là sâu sắc đối với các hoạt động văn hoá - nghệ thuật của Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân Việt Nam được hưởng sự bảo hộ từ các điều ước quốc tế tại các quốc gia thành viên khi có tác phẩm, chương trình biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng được sử dụng. Ngược lại, Việt Nam cũng phải thực hiện các nghĩa vụ bảo hộ khi sử dụng tác phẩm, chương trình biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của cac cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài thuộc các nước thành viên Công ước. Chúng ta đang đứng trước những cơ hội cho sự phát triển, đồng thời cũng đang chịu những sức ép lớn của việc bảo hộ có hiệu quả trong thực tế theo các điều ước quốc tế song phương và đa phương.
WIPO, Dự án STAR Việt Nam -Hoa Kỳ, Dự án SPC của Liên bang Thuỵ Sỹ, Dự án ECAP II của Liên minh châu Âu về sở hữu trí tuệ, Dự án SIDA Việt Nam - Thuỵ Điển và một số quốc gia đã mời trên 150 đoàn với trên 300 lượt người tham dự các hội nghị, hội thảo, khảo sát, học tập kinh nghiệm ở trên 30 quốc gia khác nhau. Từ các chương trình này, chúng ta có đội ngũ nòng cốt, có mặt ở nhiều cơ quan quản lý, thực thi, tại các tổ chức quản lý tập thể ở Trung ương và một số tỉnh/thành phố, góp phần quan trọng trong các hoạt động có liên quan đến hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan của Việt Nam còn một số tồn tại cần được khắc phục như nhận thức và hiểu biết của công chúng đang còn ở giai đoạn đầu của quá trình phổ cập. Các nhà sáng tạo chưa hiểu biết và quan tâm đúng mức đối với tài sản của mình, còn trông chờ vào các cơ quan quản lý và thực thi. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp khai thác và sử dụng tác phẩm, chương trình biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng chưa nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ của mình, trong đó có các trường hợp cố tình vi phạm, đạo đức kinh doanh. Năng lực và kinh nghiệm của hệ thống quản lý và thực thi trên phạm vi toàn quốc còn nhiều hạn chế. Đây là nguyên nhân làm hạn chế các kết quả bảo hộ. Một số lĩnh vực như chương trình máy tính, ghi âm, tín hiệu vệ tinh đang còn nhiều bức xúc cần sớm giải quyết… Hy vọng rằng, trong thời gian tới, với việc nỗ lực khắc phục các tồn tại, phát huy kết quả đã đạt được, hoạt động này ở nước ta sẽ được hoàn thiện và đẩy mạnh hơn nữa, nhằm thúc đẩy quá trình sáng tạo và hội nhập của nước nhà.








