Quang Trung - Nguyễn Huệ với phong trào Tây Sơn: Những di sản và bài học cho Việt Nam trong thế kỷ 20
Với TS Nguyễn Quốc Vinh khoa ngôn ngữ và Á Đông thuộc Đại học Harvard Mỹ, suốt 4 năm qua bằng nỗ lực của bản thân anh đã đi qua nhiều nước ở khu vực Châu Á để sưu tầm, nghiên cứu về Quang Trung Nguyễn Huệ, về phong trào Tây Sơn. Năm 98 anh tham gia Hội thảo Việt Nam học với đề tài khiêm tốn: giới thiệu 6 bức tranh (lưu trữ tại thư viện Houghton) với các bài thơ ngự chế của vua Càn Long và các bài hoạ của Vương Kiệt (Xưa và Nay) đã có bài giới thiệu).
Tháng 10 năm nay tại Hội thảo Việt Nam- Sự kiện thế kỷ 20anh đã có bản tham luận về ‘Quang Trung - Nguyễn Huệ với phong trào Tây Sơn: Những di sản và bài học cho Việt Nam trong thế kỷ 20”. Theo chúng tôi, đây là một trong những bài viết tổng hợp đặc biệt đề cập nhiều vấn đề quan trọng về phong trào Tây Sơn (theo cách nhìn của học giả nước ngoài).
Xưa và Nay xin trân trọng giới thiệu
Với đỉnh cao là người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ, vương triều Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18 tuy ngắn ngủi nhưng đã mở ra một kỷ nguyên mới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Thực vậy, Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn đã đóng một vai trò lịch sử quyết định vào cuối thế kỷ 18, và chính vì lẽ ấy mà ông và di sản của ông vẫn luôn được khai thác ở nhiều khía cạnh và mức độ để phục vụ lịch sử Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trong thế kỷ 20. Chúng tôi xin điểm qua một số thời điểm và vấn đề chủ chốt, qua đó nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục thu hút mối quan tâm và soi bước dẫn đường cho đất nước Việt Nam thời hiện đại rút kinh nghiệm tự xác định mình kể từ khi còn dưới ách thực dân hồi đầu thế kỷ cho đến những nỗ lực đổi mới và hiện đại hoá vào cuối thiên niên kỷ này.
Tiếc rằng cái chết quá sớm của ông ở tuổi 40 vào năm 1792 đã biến Nguyễn Huệ thành một nhân vật có nhiều giả thuyết “nếu như” nhất, và vì thế cũng được tranh cãi rộng rãi và sôi nổi nhất trong lịch sử Việt Nam. Chẳng những các nỗ lực kiến thiết quốc gia của ông còn dở dang và chưa được thử nghiệm trước khi bị gián đoạn và từ bỏ không đúng lúc, mà cả triều đại do ông kiến lập cũng cáo chung trong vòng một thập kỷ sau khi ông mất. Đến năm 1802 thì Nguyễn Ánh đã xoay sở đánh bại nhà Tây Sơn bằng vũ lực, nhờ đó mà hoàn tất công cuộc thống nhất đất nước, rồi sau đó trả thù bằng cách thủ tiêu có hệ thống toàn bộ gia tộc và di sản của nhà Tây Sơn. Thế là triều Nguyễn bắt đầu hơn một thế kỷ chính thức đàn áp và bôi nhọ ký ức trong dân chúng về phong trào Tây Sơn và người anh hùng Nguyễn Huệ.
Mối quan tâm hàng đầu của nhà Nguyễn là hợp thức hoá và củng cố vương quyền mà mình mới đạt được. Theo thông lệ thì mỗi triều đại có san định chính sử về triều đại trước như một dạng tuyên cáo chính trị để đưa lịch sử sang trang. Triều Nguyễn cũng soạn một bộ chính sử là Khâm định Việt sử thông giám cương mục, nhưng chỉ chép đến cuối nhà Lê và cố ý bỏ sót thời Tây Sơn, thế là tạo ra một khoảng trống 14 năm trong trình tự kế tục của các triều đại. Chỉ mãi sau này các vua Tây Sơn mới được chép riêng trong vẻn vẹn một thiên của bộ Đại Nam liệt truyệndưới nhan đề “Nguỵ Tây liệt truyện”. Rắc rối hơn là các chúa Nguyễn trước đây vẫn xưng thần với nhà Lê, cho dù chỉ trên danh nghĩa, nên về mặt ý thức hệ tôn quân của Nho giáo sẽ khá vướng mắc để biện minh cho sự thay đổi triều đại từ Lê sang Nguyễn. Nhưng nhờ Nguyễn Huệ đã đăng quang để kết liễu nhà Lê vào năm 1788 nên sự khai nguyên của triều Nguyễn vào năm 1802 lại được xem là việc giành lại vương quyền chính thống từ tay “bọn tiếm nguỵ” Tây Sơn. Mỉa mai thay, mặc dù nhà Nguyễn không thừa nhận sự hiện hữu của một triều đại Tây Sơn, chính triều đại của họ có danh chính ngôn thuận hay không lại dựa trên tiền lệ của một chế độ mà họ đã gạt bỏ là tiếm ngụy.
Cũng như nhà Tây Sơn đã kết thúc hiện trạng cũ, triều Nguyễn phải kế thừa hoàn cảnh rối rắm này ngay khi họ ra sức lật đổ và xoá nhoà di sản của nhà Tây Sơn. Một phần của chương trình kiến thiết quốc gia của các vua đầu triều Nguyễn là việc áp đặt một mô hình tổ chức xã hội và chính trị bảo thủ theo kiểu Hán hoá trên một đất nước mới thống nhất, nhưng nỗ lực tập quyền về trung ương của họ không mấy thành công trong việc giải quyết những mâu thuẫn lịch sử đã bùng nổ từ thời Tây Sơn. Tất cả các nỗ lực kiến thiết quốc gia này lại bất ngờ bị đánh bật khỏi quỹ đạo và cuối thế kỷ 19 khi triều Nguyễn phải uốn gối trước thực dân Pháp vào năm 1884. Tuy lòng người ở các địa phương vẫn hướng tới một khí thế anh hùng ái quốc có thể hiệu triệu chúng dân chống ngoại xâm, nhưng một triều đình thận trọng và đa phần chủ hoà ở Huế lại lo lắng nhiều hơn về hiểm hoạ của những cuộc nổi dậy theo kiểu Tây Sơn nên đã không có được phản ứng kịp thời. Và chính vì các chính sách của nhà Nguyễn từ trước đến nay vẫn nhằm ngăn chặn sự tái hiện của một cuộc khởi nghĩa quần chúng giống như phong trào Tây Sơn, nên khi thời cơ chuyển sang kêu gọi quần chúng nổi dậy chống Pháp thì hoàn cảnh khác nhau đã làm cho nỗ lực đoàn kết kháng chiến chống thực dân trở nên kém hiệu quả và vô vọng. Bởi quá chú tâm đến việc bảo vệ quyền lực của mình nên triều đình Nguyễn đã thất bại trước nhiệm vụ bảo vệ đất nước khỏi ách thực dân.
Sang đầu thế kỷ 20, sau khi ách thực dân đã giáng một đòn chí tử vào uy tín của triều Nguyễn, thời cơ đã chín muồi cho việc xét lại kẻ thù xưa đã bị diệt là nhà Tây Sơn. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên là sau sự đầu hàng của triều đình Huế và hàng loạt thất bại vũ trang của các phong trào kháng chiến Cần Vương và Văn Thân, một dân tộc Việt Nam bị chinh phục và chia cắt lại hoài niệm về những chiến tích vẻ vang của thời Tây Sơn thuở nào. Nguyễn Huệ được khôi phục thanh danh chủ yếu trên khía cạnh này như là một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất và một thiên tài quân sự tầm cỡ thế giới (đáng so sánh với Napoléon Bonaparte). Vấn đề “chính ngụy” vẫn được tranh cãi trong nhiều năm về việc có nên và nên như thế nào để đưa nhà Tây Sơn vào một dòng chảy không gián đoạn của các vương triều kế tục nhau trong lịch sử Việt Nam . Một vấn đề có liên quan khác lại nảy ra chung quanh việc có nên và nên như thế nào để giành lại công tích thống nhất đất nước khỏi tay vua Gia Long của một triều Nguyễn ngày càng mang tiếng xấu để trao lại cho Nguyễn Huệ trên cơ sở của những chiến công lừng lẫy và di sản anh hùng chống ngoại xâm của ông. Theo đà công luận ngày càng tỏ rõ tinh thần dân tộc, chẳng bao lâu Nguyễn Huệ được tôn vinh vào trong hàng ngũ các anh hùng vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam, đặc biệt hùng hồn trong chuyên khảo mang tính chuẩn mốc của Hoa Bằng về tiền sử - lịch sử của Quang Trung - Nguyễn Huệ: Anh hùng dân tộcđược ra mắt vào những năm 1943 - 1944.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt vương triều Nguyễn và mở ra một nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Buổi bình minh mới của độc lập dân tộc lại thổi bùng lên cao hơn ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc và quảng bá rộng rãi hơn cho việc khôi phục thanh danh cho triều đại Tây Sơn. Tuy bắt nguồn với tính cách địa phương, ngày giỗ trận Đống Đa để kỷ niệm chiến công của Quang Trung mau chóng trở thành dịp lễ ăn mừng hàng năm của dân tộc. Một cử chỉ tượng trưng khác để khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc vừa giành lại được là việc đổi tên đường phố ở các đô thị lớn, tước đi tên tuổi của bọn thực dân và Việt gian bán nước vốn là tiền lệ phá vỡ lệ kỵ huý tên riêng trước công chúng: chẳng hạn như tên Quang Trung được đặt cho Boulevard de Jaureguiberry ở trung tâm Hà Nội (và tên Nguyễn Huệ cho Boulevard Charner ở trung tâm Sài Gòn), mở đầu một xu hướng đặt tên mà ngày nay đã phổ biến ở hầu hết các thành thị trong nước. Sau khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, những cái tên Quang Trung và Nguyễn Huệ, cùng với tên các anh hùng quân sự khác của dân tộc, thường được đặt cho các chiến khu, binh đoàn, trường sĩ quan, khu huấn luyện, và các chiến dịch quân sự để khơi gợi và động viên khí thế anh hùng trong quân đội.
Việc giải phóng Sài Gòn năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh chống Mỹ, và mặc dù đã có những nỗ lực hoà hợp và hoà giải dân tộc, dấu ấn của sự khác biệt về chế độ chính trị giữa hai miền Nam Bắc trong quá khứ chia cắt còn tạo ra không ít băn khoăn và mặc cảm cho một số người dân miền Nam, đặc biệt là giới trí thức, dưới chế độ mới. Hiện trạng này được thể hiện một cách hùng hồn qua một vở cải lương với tựa đề “ Tâm sự Ngọc Hân” của tác giả Lê Duy Hạnh. Dựa trên cuộc tình và hôn nhân giữa vị công chúa nhà Lê và người anh hùng Nguyễn Huệ, tác phẩm sân khấu này đã soi sáng khía cạnh chính trị của vấn nạn mà Ngọc Hân phải đối đầu khi bị bên nhà chồng xem là có tội trong lúc cháu mình là tự hoàng Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh để chống Tây Sơn. Chỉ có lòng tin và sự sáng suốt của Nguyễn Huệ mới giúp nàng công chúa bất hạnh vượt qua được hiềm nghi và chứng tỏ rằng mình trung thành với đại nghĩa của chồng. Ẩn dụ lịch sử này đã đem lại cái nhìn nhân bản hơn không chỉ cho nhân vật của Nguyễn Huệ, nhưng cả cho những trí thức miền Nam còn khắc khoải vì lo sợ bị nghi kỵ dưới chế độ mới. Chủ ý kết nối nhân vật Nguyễn Huệ là một minh quân của lịch sử với Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay càng được tỏ rõ qua thành tựu của một vở cải lương khác (cũng của Lê Duy Hạnh) mang tên “ Mặt trời đêm thế kỷ” được viết cho dịp Đại hội VI của Đảng đã mở ra thời kỳ đổi mới vào năm 1986.
Các chính sách đổi mới, bắt đầu từ năm 1986 là nhằm đưa đất nước theo đường lối cải cách kinh tế chuyên tâm vào các nhiệm vụ xây dựng đất nước và hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên trong một thời gian đầu thì tác động của quá trình cải cách này cũng đem lại sự đổi mới tư duy, cởi mở về công luận, và thậm chí còn vô tình khơi gợi lên ít nhiều tư tưởng đối kháng. Những cái nhìn xét lại hay thậm chí là báng bổ về lịch sử Tây Sơn đã nảy sinh bên lề sử học trong trí tưởng tượng hư cấu của văn học nơi mà lịch sử có thể khoác lên cho mình những nét dung túng và thậm chí là lạm dụng trên danh nghĩa sáng tạo. Sau những “phát đạn” đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp trong bộ ba các truyện ngắn “Kiếm sắc - Vàng lửa - Phẩm tiết” ra mắt vào năm 1988, bỗng nhiên cả từ trong lẫn ngoài Việt Nam người ta có thể hạ bệ tầm vóc huyền thoại của thần tượng người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ trong lịch sử dân tộc qua những hư cấu tiểu thuyết về những khuyết tật rất “con người” chẳng hạn như tự ti, nghi hoặc, nghi kỵ, nhỏ nhen, ghen tị, ghen tuông, thịnh nộ, bạo quyền và thậm chí là bạo dục! Theo một hướng tích cực hơn để minh hoạ cho những chính sách đổi mới thì nhân vật Nguyễn Huệ cũng được đề cao như là một điển hình cho tinh thần cải cách trong quan tâm nội trị của ông sau khi hoà hiếu với Trung Quốc. Và đến những năm cuối thập niên 1990, khi Việt Nam phải đối mặt với những thách đố ngày càng khó khăn của việc hội nhập toàn cầu, thì Nguyễn Huệ lại được nêu gương mới, gần đây nhất bởi Thủ tướng Phan Văn Khải trong dịp kỷ niệm 210 năm chiến thắng Đống Đa, để động viên cả dân tộc hãy kế thừa di sản anh hùng của Quang Trung làm động lực hoá thân trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tuy ký ức về ông đã bị huỷ hoại và bôi nhọ trong thế kỷ 19 bởi triều Nguyễn, nhưng sang đến thế kỷ 20 thì Quang Trung - Nguyễn Huệ đã trỗi dậy như một anh hùng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc để đem lại nguồn động viên và sự suy xét rất cần thiết trước các thử thách mà đất nước Việt Nam thời hiện đại phải đối mặt. Ông đã trở thành một trung tâm điểm để tham khảo và tranh cãi về các vấn đề hệ trọng vẫn luôn được quan tâm trong thế kỷ 20 chẳng hạn như: vấn đề nội chiến, thống nhất đất nước, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa anh hùng quân sự, kháng chiến chống ngoại xâm, ngoại giao và nội trị, đấu tranh giai cấp, sự nghiệp cải cách và cách mạng xã hội – kinh tế - chính trị - văn hoá, uy tín và chính thống trong chính trị và đức trị, công cuộc xây dựng và hiện đại hoá đất nước. Nhưng vì có khá nhiều ý kiến khác nhau về những di sản và bài học của ông trên phương diện các vấn đề hiện đại kể trên, việc khảo sát tính chất và công dụng trong lịch sử của nhân vật Nguyễn Huệ của phong trào Tây Sơn có thể soi sáng thêm không chỉ về bản thân nhân vật này như là một yếu tố và sản phẩm lịch sử, nhưng cả về những động lực lịch sử đã tương tác trong suốt quá trình lịch sử tiếp nhận nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ. Trong bài sơ lược này chúng tôi chỉ mong điểm qua vấn đề và thu hút quan tâm đến giá trị của công tác nghiên cứu như vậy, bởi lẽ cách tiếp cận này đối với nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ có thể soi sáng không chỉ cho cái thế giới của ông vào cuối thế kỷ 18 mà quan trọng hơn là cho cả thế giới hiện đại của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Nguồn: Xưa và Nay, số 84 + 85, tháng 1, 2 - 2001, tr 14 -17, 22