Quản lý chương trình khoa học và công nghệ: Từ quy chế tạm thời 41 đến quy chế 2006-2010
Những hạn chế của Quy chế tạm thời 41
Chương trình KH và CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tăng cường năng lực của ngành KH và CN.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức, quản lý hoạt động của chương trình KH và CN giai đoạn 2001 - 2005, các tồn tại của cơ chế quản lý cũng được nhận ra. Phương thức quản lý các đề tài, dự án (theo Quy chế tạm thời 41) vẫn còn dấu ấn của cơ chế hành chính bao cấp, khó tránh khỏi tình trạng dàn trải và trùng lặp, việc đánh giá hiệu quả hoạt động KH và CN chưa được quan tâm đúng mức. Vẫn còn tỷ lệ đáng kể các nhiệm vụ chưa thật sự gắn với thực tế sản xuất và đời sống; tỷ lệ công nghệ và thiết bị được áp dụng vào sản xuất chưa cao, phạm vi ứng dụng còn hạn chế. Nhiều nhiệm vụ còn ôm đồm quá nhiều nội dung, trong khi mục tiêu còn chung chung nên việc giải quyết các vấn đề thường không trọn vẹn, không triệt để, kết quả khó có khả năng ứng dụng.
Ngày 18-7-2001, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ (KH và CN) đã có Quyết định số 41/2001/QÐ-BKHCNMT ban hành (KH và CN) trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 (gọi tắt là Quy chế tạm thời 41). Ðể quản lý tốt các chương trình KH và CN cấp Nhà nước trong giai đoạn mới, Bộ KH và CN đã xây dựng và chuẩn bị ban hành Quy chế quản lý chương trình KH và CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 (gọi tắt là Quy chế 2006 - 2010). |
Trong tổ chức thực hiện chương trình KH và CN, một số nhiệm vụ được lựa chọn chưa thật cấp bách, chưa thật sự gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều trường hợp chỉ là tập hợp cơ học của một loạt các đề tài, lĩnh vực, thiếu sự gắn kết theo mục tiêu, nên trong quá trình triển khai, từng nơi thực hiện các nội dung độc lập nhau, ý tưởng gắn kết các nhà khoa học để giải quyết một vấn đề lớn không thực hiện được. Việc tổ chức các hội đồng tư vấn trong tuyển chọn có lúc chưa bảo đảm khách quan, còn nhiều vấn đề về chuyên môn và tính khách quan của chuyên gia trong hội đồng...
Những điểm mới của Quy chế 2006 - 2010
Quy chế 2006 - 2010 được xây dựng trên quan điểm: Khắc phục những hạn chế của Quy chế tạm thời 41; kế thừa kinh nghiệm thực tiễn qua quá trình quản lý chương trình giai đoạn 2001 - 2005; nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của Bộ KH và CN trong quản lý chương trình giai đoạn 2006 - 2010; đẩy mạnh phân cấp, phân nhiệm cho Ban chủ nhiệm chương trình, đề cao trách nhiệm của Ban chủ nhiệm đối với quá trình triển khai và kết quả hoạt động của chương trình, tạo điều kiện chủ động cho Ban chủ nhiệm; quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ KH và CN, Ban chủ nhiệm chương trình, các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm các đề tài, dự án; bảo đảm công khai, dân chủ trong quá trình tổ chức thực hiện chương trình.
Từ những quan điểm này, Quy chế 2006 - 2010 được soạn thảo có một số thay đổi quan trọng so với Quy chế tạm thời 41.
Thứ nhất: Chức năng, nhiệm vụ của Ban chủ nhiệm chương trình. Quy chế 2006 - 2010 (dự thảo) quy định Ban chủ nhiệm chương trình là đơn vị cấp dưới của Bộ KH và CN, do Bộ thành lập và trực tiếp nhận các nhiệm vụ từ Bộ. Ban chủ nhiệm chương trình chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng KH và CN trong cả quá trình từ tổ chức tuyển chọn các tổ chức, cá nhân thực hiện đề tài dự án, đến tổ chức thực hiện và đánh giá nghiệm thu kết quả đề tài, dự án thuộc chương trình.
Với sự phân nhiệm này, Ban chủ nhiệm chương trình phải tham gia ngay từ đầu quá trình hình thành nội dung chương trình, tạo nên sự gắn kết từ giai đoạn hình thành nhiệm vụ đến tiếp tục chỉ đạo hoạt động của chương trình. Ban chủ nhiệm chương trình sẽ chủ động hơn, chịu trách nhiệm lớn hơn trước các đề xuất của mình, khắc phục một phần tình trạng chia cắt trong quá trình quản lý đề tài, dự án.
Thứ hai: Tổ chức Văn phòng chương trình. Theo Quy chế 2006 - 2010, chỉ có một văn phòng giúp Bộ trưởng KH và CN quản lý tất cả các chương trình, giúp các Ban chủ nhiệm chương trình trong quá trình tổ chức triển khai, thực hiện các nhiệm vụ của chương trình, gọi là văn phòng các chương trình. Văn phòng các chương trình là đơn vị trực thuộc Bộ KH và CN, cán bộ, nhân viên văn phòng các chương trình hưởng lương từ kinh phí của chương trình.
Thứ ba: Một số điều chỉnh trong quá trình thực hiện chương trình. Bộ KH và CN sẽ quyết định các điều chỉnh liên quan mục tiêu, sản phẩm, thời hạn thực hiện, kinh phí mua sắm thiết bị và hợp tác quốc tế của đề tài, dự án, các điều chỉnh khác bộ ủy quyền cho Ban chủ nhiệm chương trình quyết định. Ðiều này sẽ làm tăng trách nhiệm của các cán bộ theo dõi các đề tài, dự án, khắc phục tình trạng "vô cảm" trong quản lý, đồng thời giúp cho Ban chủ nhiệm chương trình và các chủ nhiệm đề tài, dự án có phương án điều chỉnh kịp thời với các điều chỉnh nhỏ.
Thứ tư: Nghiệm thu, Quy chế tạm thời 41 quy định nghiệm thu hai cấp là cấp cơ sở và cấp Nhà nước. Quy chế 2006 - 2010 quy định nghiệm thu ba cấp: Ðối với đề tài, dự án vẫn tổ chức theo hai cấp (cấp cơ sở do tổ chức chủ trì đề tài, dự án thực hiện, cấp chương trình - nghiệm thu chính thức - do Ban chủ nhiệm chương trình thực hiện), và cấp Nhà nước (nghiệm thu toàn bộ chương trình) do Bộ KH và CN chủ trì thực hiện. Việc đánh giá nghiệm thu đối với toàn bộ chương trình sẽ căn cứ vào nhiệm vụ mà Bộ KH và CN đã giao cho Ban chủ nhiệm chương trình về mục tiêu, nội dung, kết quả phải đạt của chương trình.
Việc nghiệm thu toàn bộ chương trình sẽ giúp Bộ KH và CN có điều kiện đánh giá nghiệm thu kết quả toàn bộ chương trình "kỹ" hơn. Tiêu chí đánh giá nghiệm thu trên cơ sở văn bản giao nhiệm vụ của Bộ KH và CN với Ban chủ nhiệm chương trình sẽ được định lượng đến mức tối đa để việc đánh giá nghiệm thu được đúng và chính xác.
Thứ năm: Thành lập các hội đồng tư vấn tuyển chọn và đánh giá nghiệm thu. Bộ KH và CN ủy quyền cho Ban chủ nhiệm chương trình thành lập các hội đồng tư vấn tuyển chọn, đánh giá nghiệm thu và tổ chức các buổi làm việc của hội đồng dưới sự giám sát của Bộ KH và CN. Ðiều này sẽ khắc phục một phần tình trạng độc quyền trong việc đề xuất thành phần hội đồng để chi phối hoạt động các thành viên hội đồng.
Thứ sáu: Công khai thông tin, Quy chế 2006 - 2010 coi trọng vấn đề công khai những nội dung liên quan kinh phí đề tài, dự án, công khai thành phần các hội đồng tuyển chọn, đánh giá nghiệm thu, địa điểm, thời gian đánh giá nghiệm thu. Quy chế 2006 - 2010 quy định các thông tin nêu trên phải được thông báo rộng rãi trên các trang thông tin điện tử, trên các báo và tạp chí của Bộ KH và CN để những người quan tâm biết và đến dự.
Thứ bảy: Công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình thực hiện chương trình cũng như quy định chế tài đối với các tổ chức, cá nhân hoàn thành tốt các nhiệm vụ KH và CN cũng như các nhiệm vụ KH và CN không hoàn thành.
Nguồn: nhandan.com.vn








