Qua các thư tịch cổ Việt Nam : Hoàng Sa không thể chuyển nhượng
Dưới thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng 1558-1613, những quan lại người Chămpa là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đã giúp chúa Tiên Nguyễn Hoàng chiếm hữu Hoàng Sa.
Dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên 1613-1635, thương gia Nhật Bản Araki Sôtarô lấy một quận chúa người Việt, mang tên Việt là Nguyễn Đại Lượng, đã giúp Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên trông coi việc buôn bán với người nước ngoài và đã chỉ huy Đội Hoàng Sa hàng năm đến mùa khô đưa đội thuyền ra quần đảo Hoàng Sa vẽ bản đồ và khai thác hải sản và thu vớt hàng hóa của tàu thuyền nước ngoài bị đắm tại đây.
Người phương Tây đã lầm tưởng rằng giữa biển Đông trước mặt lãnh thổ Đại Việt chỉ có một quần đảo duy nhất, kéo dài từ phía Bắc đến phía Nam của Đàng Trong. Dưới thời các Chúa Nguyễn quần đảo dài này, ngoài tên gọi Bãi Cát Vàng còn có các tên gọi khác như Cồn Vàng, Hoàng Sa, Trường Sa, Đại Trường Sa và Vạn Lý Trường Sa và các nhà hàng hải, các nhà đồ bản phương Tây gọi nó là Paracels, Parcela hay Pracels (1,2).
Cho mãi đến những năm 1787-1788, cách đây hơn hai trăm năm, phái đoàn nghiên cứu Pháp Kergariou-Lacmaria mới xác định được rõ ràng và chính xác vị trí của Bãi Cát Vàng và nhận thấy rằng nó gồm có quần đảo Hoàng Sa (mà người phương Tây gọi là Paracels và người Trung Hoa gọi là Tây Sa) nằm ở phía Bắc và quần đảo Trường Sa (mà người phương Tây gọi là Sfratly và người Trung Hoa gọi là Nam Sa) nằm ở phía Nam, cách nhau chừng 500km (1,4).
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ nói tới quần đảo Hoàng Sa. Hoàng Sa là tên chữ Hán của Cát Vàng. Quần đảo này gồm khoảng 30 hòn đảo, mõm đá, bãi cạn, trong đó đảo lớn nhất cũng mang tên Hoàng Sa (mà người phương Tây gọi là Ile de Pattle và người Trung Hoa gọi là San Hô Đảo) chiếm một bề mặt 15.000km 2, rộng khoảng 95 hải lý kể từ Đông sang Tây và dài khoảng 90 hải lý kể từ Bắc xuống Nam, chia thành hai nhóm đảo: phía Đông là nhóm An Vĩnh (mà người phương Tây gọi là groupe d’amphirite và người Trung Hoa gọi là Vĩnh Nhạc Quần Tiêu) gồm 8 đảo và bãi đá; phía Tây là nhóm Lưỡi Liềm (mà người phương Tây gọi là groupe de Croissant và người Trung Hoa gọi là Tuyên Đúc Quân Tiêu) gồm 15 đảo và bãi đá chính (4).
Điểm gần nhất của quần đảo này với đất liền nước ta là Đà Nẵng có khoảng cách 170 hải lý. Gần đây nhất, Hội đồng Bộ trưởng nước ta đã ra Quyết định số 194-HĐBT ngày 9/12/1982 thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (23).
Việt Nam có đầy đủ danh nghĩa lịch sử và pháp lý về chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không ai khác, nước Đại Việt dưới thời các chúa Nguyễn là quốc gia đầu tiên đã phát hiện ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là nhờ đường lối mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài từ thế kỷ 16 mà trong đó đô thị Hội An đã trở thành một thương cảng quốc tế nằm trên đường hàng hải thế giới nối liền phương Đông với phương Tây. Thuyền buôn củangười Đại Việt ở Đàng Trong, từ Cù Lao Chàm đã nhiều lần đi qua quần đảo Hoàng Sa trên đường đi đến hải cảng Nagasaki của Nhật Bản. Các tàu buôn phương Tây như Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp,… đã bao nhiêu lần đi qua quần đảo Hoàng Sa để vào cảng thị Hội An mà không bao giờ có ý định chiếm hữu một hòn đảo, bãi đá nào trong những thế kỷ trước.
Trong những thế kỷ trước đây, các chúa Nguyễn đã thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa đã được nhà đồ bản Đại Việt là Đỗ Bá Công Đạo ghi rõ trên bản đồ “ Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư ” (26).
Tiến sĩ người Anh Gutzlaff trong bài viết “ Địa lý của Vương quốc Đàng Trong ” đăng trên tập san “Hội Địa lý London năm 1849 ” cũng đã gọi quần đảo Hoàng Sa và vào thời kỳ đó với cái tên “ Kát Vàng”và đã viết một đoạn dài về quần đảo này (7).
Đức giám mục Jean Louis Taberd trong bài viết “ Ghi chép về địa lý xứ Đàng Trong ” đăng trên tờ báo của Hội châu Á của xứ Bengale vào năm 1837, cũng đã gọi quần đảo Hoàng Sa là “ Cát Vàng” ( ). Trong một bài báo, ông đã viết rằng: “ Chúng tôi xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa quả thật là một mê cung, bao gồm những đảo nhỏ, mõm đá và bãi đá khiến cho người đi biển rất lo sợ, đã được người An Nam xứ Đàng Trong chiếm hữu”(6). Điều này có nghĩa là theo tác giả này, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về Việt Nam từ 1804 sau khi vua Gia Long thống nhất nước Việt Nam.
Tác giả Dubois de Jancigny, trong một cuốn sách xuất bản vào năm 1850 cũng đã nói rõ người Đại Việt gọi Paracels là Cát Vàng ( ).
Trong thực tế lịch sử, nhà nước phong kiến Việt Nam vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 đã chiếm hữu và quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng những đơn vị hành chính do các chúa Nguyễn thành lập. Và điều đó còn lưu lại trong nhiều thư tịch cổ của nước ta.
Trong cuốn sách địa lý cổ “ Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư ”, sử quan Đỗ Bá Công Đạo đã viết “ Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ bốn trăm dặm, rộng hai mươi dặm, dựng đứng giữa biển” (26). Trong bản đồ này, Bãi Cát Vàng được vẽ đối diện với huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa ở ngoài khơi cách xa Cù Lao Ré. Như vậy có nghĩa là sau khi phát hiện Bãi Cát Vàng, quần đảo này đã được Đàng Trong chiếm hữu và sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, thuộc địa phận phủ Quảng Nghĩa của Quảng Nam Dinh.
Trên phần bản đồ vùng Quảng Nghĩa của cuốn sách cổ nói trên có ghi lời chú thích: “ Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài bốn trăm dặm, rộng hai mươi dặm, dựng đứng giữa biển từ Cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh… Họ Nguyễn mỗi năm vào cuối mùa đông đưa 18 thuyền đến lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”(20).
Tất cả các sách viết về lịch sử chính thống của Nhà nước phong kiến Việt Namdưới triều Nguyễn do Quốc Sử Quán biên soạn đều nói đến quần đảo Hoàng Sa như một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam .
Từ năm 1844, “ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên ” viết về thời đại các Chúa Nguyễn đã ghi rõ “ Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện bình Sơn, tỉnh Quảng Nghĩa có hơn 130 cồn cát, cách nhau một ngày đường hoặc vài canh (một canh dài khoảng 30km). Chiều dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa, trên có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba…” (8).
Trong “ Đại NamThực Lục Chính Biên ” viết năm 1848 về thời các vua Nguyễn, càng xác định rõ ràng hơn quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam . Cuốn sách lịch sử đó có những dòng sau: “ Dải Hoàng Sa trong hải phận Quảng Nghĩa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được rộng sâu” (9) và “ Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực nước ta, rất là hiểm yếu”(10).
Bộ sách “ Đại Nam Nhất Thống Chí ” biên soạn từ 1865 dưới triều Nguyễn là một bộ sách lịch sử chính thống viết về địa lý Việt Nam, theo chỉ dụ của vua Tự Đức, khi mô tả tỉnh Quảng Nghĩa đã viết: “ Phía Đông có đảo cát nằm ngang (Hoàng Sa đảo) liền với biển xanh làm hào che, phía Tây khống chế vùng Sơn Nam có lũy đá dài chồng chất giữ cho vững vàng, phía Nam kề bên tỉnh Bình Định có sườn núi Bến Đá làm mũi chặn ngang, phía Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam có ghềnh sa có thể làm giới hạn” (12).
Cuốn sách đó còn mô tả về địa lý và tài nguyên thiên nhiên của Hoàng Sa: “Ở phía đông đảo Lý (tức từ Cù Lao Ré ngày nay), huyện Bình Sơn, từ bờ biển Sa Kỳ chạy ra khơi, thuận gió ba bốn ngày đêm có thể đến. Trên đảo nhiều núi la liệt tất cả 130 ngọn, cách nhau một ngày đường hoặc vài canh. Giữa đảo có bãi Hoàng Sa (Cát Vàng) bề dài kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa, trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập nhiều không biết bao nhiêu mà kể, sản xuất nhiều hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba; hàng hóa, đồ vật của các thuyền bị nạn bão cũng tụ tập ở đó” (12).
Năm 1776, trong bộ sách “ Phủ Biên Tạp Lục” của mình, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết về tiềm năng thiên nhiên của Hoàng Sa như sau: “ Ở ngoài Cù Lao Ré có đảo Đại Đường Sa, ngày trước nơi đây thường sản xuất nhiều hải vật chở đi bán các nơi, nên Nhà nước có thiết lập một “đội Hoàng Sa” để thu nhận các hải vật. Người ta phải đi ba ngày đêm mới đến được Đại Trường Sa ấy, như vậy là đảo Đại Trường Sa đã gần với xứ Bắc hải” (13).
Đến năm 1821, khi biên soạn bộ sách lớn “ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí ”, nhà nho uyên bác Phan Huy Chú đã viết một đoạn dài về địa lý Hoàng Sa và tiềm năng thiên nhiên ở đây: “ Ở đây - tức phủ Tư Nghĩa, vật lực phong phú, lúa gạo không kể xiết, vàng bạc, cây gỗ, châu báu, trầm hương, tức hương đều rất tốt, voi ngựa chăn nuôi cũng rất nhiều. Lại có đảo lớn, đảo nhỏ ở ngoài biển, cảnh vật xinh tốt, báu kỳ, vật lạ phần nhiều ở nơi này. Ở ngoài biển có hòn đảo lớn - tức đảo Hoàng Sa - nhiều núi linh tinh hơn 130 ngọn, từ trong núi ra biển ước đầy một ngày đường hoặc vài canh… ra khơi ba ngày ba đêm mới đến đảo này” (14).
Năm 1876, quan đại thần Nguyễn Thông của Nhà Nguyễn, tác giả cuốn sách viết về lịch sử và địa lý Việt Nam “ Việt Sử Cương Giám Khảo Lược ”, đã viết về Hoàng Sa như sau: “ Vạn Lý Trường Sa từ đảo Lý (tức Cù Lao Ré ngày nay) đi thuyền về phía Đông ba ngày thì đến” (15).
Như vậy, các tư liệu lịch sử còn để lại trong các thư tịch cổ đã cho thấy rằng Nhà nước phong kiến Việt Nam đã củng cố sự chiếm hữu và xác lập chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa từ thời các Chúa Nguyễn (1558-1783) đến Nhà Tây Sơn (1786-1802) và Nhà Nguyễn (1802-1945) bằng cách tổ chức các “đội Hoàng Sa” để đo đạc địa lý, nắm vững luồng lạch, tuần tra an ninh và khai thác tài nguyên thiên nhiên của quần đảo Hoàng Sa (1).
Theo “ Phủ Biên Tạp Lục ” của Lê Quý Đôn, Chúa Nguyễn đã thành lập nhiều đội khai thác tài nguyên của các hải đảo do Nhà nước điều hành và quản lý như “Đội Thanh Châu” có nhiệm vụ khai thác yến sào ở các đảo yến của Đàng Trong, “đội Hải Môn” chuyên đi lấy hải vật và hóa vật ở Cù Lao Phú Quý, “Đội Hoàng Sa” khai thác các nguồn lợi của Bãi Cát Vàng (13,4).
Đội Hoàng Sa với biên chế 70 suất đinh và đội thuyền 5 chiếc có nhiệm vụ đánh bắt hải sản như hải sâm, đồi mồi, ốc xa cừ, ốc hương, ba ba, giải… và thu lượm hóa vật của các tàu thuyền bị đắm ngoài khơi dạt vào vác hòn đảo, bãi đá của Hoàng Sa như gươm súng, đại bác, vàng bạc, đồng chì, ngà voi, trầm hương, đồ sứ, đồ thủy tinh, vải vóc, sáp ong… Đội cũng có nhiệm vụ tổ chức phòng thủ đường biển, thu thuế các thương thuyền, thăm dò đo đạc thủy trình, xác định vị trí từng đảo, vẽ bản đồ về dâng trình Chúa Nguyễn và đôi khi cứu giúp người bị nạn đắm thuyền. Hàng năm, Đội Hoàng Sa hoạt động vào mùa khô trong sáu tháng từ tháng 2 đến tháng 8. Về sau, Chúa Nguyễn còn thành lập thêm “Đội Bắc Hải” hoạt động ở vùng phía Nam từ quần đảo Trường Sa đến các đảo Côn Lôn, Phú Quốc (1,4).
Dưới thời các vua Nguyễn, Nhà nước phong kiến Việt Nam càng củng cố chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vua Gia Long, người sáng lập ra Triều Nguyễn và các vua kế vị Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã đặc biệt quan tâm đến việc củng cố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đó.
Năm 1815, vua Gia Long đã cử Phạm Quang Ảnh dẫn Đội Hoàng Sa ra quần đảo Hoàng Sa để làm nhiệm vụ. “ Đại Nam Thực Lục Chính Biên ” đã ghi lại sự kiện này: “ Tháng Giêng năm Ất Hợi (1815). Sai bọn Phạm Quang Ảnh thuộc Đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình” và “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long 1816… vua ra lệnh cho thủy quân và Đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình” (9,14).
Dưới thời vua Thiệu Trị, hàng năm Đội Hoàng Sa vẫn ra khơi làm nhiệm vụ, chỉ riêng năm 1847, trong nước nhiều việc nên Đội Hoàng Sa không ra được quần đảo Hoàng Sa. Bộ Công vào năm đó đã làm tờ tâu đệ trình lên nhà vua với nội dung: “ Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta. Theo lệ hàng năm phải có thuyền ra xem xét thông thuộc đường biển. Năm nay bận nhiều công việc, xin hoãn đến năm sau”. Vua Thiệu Trị đã phê vào Châu bản này: “Đình” (16,1).
Vua Minh Mạng sau khi lên ngôi vào năm 1820 đã tiếp tục củng cố thêm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Liên tiếp trong ba năm 1834, 1835 và 1836, nhà vua đã cử các tướng Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên và Phạm Hữu Nhật đến Hoàng Sa để đo đạc từng đảo, khảo sát tình hình biển xung quanh, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia.
Về sự việc này, “ Đại Nam Thực Lục Chính Biên ” đã ghi lại: “ Tháng 8 mùa thu, năm Quý Tỵ, Minh Mạng thứ 14 (1833). Vua bảo Bộ Công rằng: Dải Hoàng Sa trong hải phận Quảng Nghĩa… gần đây thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền bè đến sang năm sẽ phái người tới dựng miếu, lập bia, lại trồng nhiều cây cối. Ngày sau, cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết có thể tránh được nhiều mắc cạn. Đó cũng là việc lợi ích muôn đời vậy” (9). Trong bản đồ “ Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ ” trích trong cuốn “ Hoàng Việt Địa Dư Chí ” do Phan Huy Chú biên soạn năm Minh Mạng thứ 14, 1834, có ghi rõ các tỉnh từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau và các đảo Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa (32).
“ Đại Nam Thực Lục Chính Biên ” còn viết thêm: “ Tháng 6 mùa hạ năm Ất Mùi, Minh Mạng thứ 16 (1835). Năm ngoái vua định dựng miếu, lập miếu ở chỗ ấy (tức Hoàng Sa) vì gặp lúc sóng to không làm được. Đến nay mới sai cai đội thủy binh Phạm Văn Nguyên đem lính cùng giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Định chuyên chở vật liệu dựng miếu (cách tòa miếu cổ bảy trượng). Bên trái dựng bia đá, phía Tây miếu dựng bình phong. Mười ngày làm xong rồi về” (9).
Về việc dựng miếu trên đảo Hoàng Sa, “ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ ” đã cho biết: “ Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), tâu xin cho cất một gian miếu Hoàng Sa (theo thể chế nhà bằng đá) ở phía Tây cồn Bạch Sa, bên trái dựng bia đá (chiều cao 1 thước 5 tấc, mặt rộng 1 thước 2 tấc). Mặt trước áp đá che, hai bên tả hữu, đằng sau miếu có trồng các loại cây” (11).
Tiếp đó đến năm 1836, vua Minh Mạng lại ra chỉ dụ điều tra, khảo sát lập bản đồ Hoàng Sa một cách toàn diện, hoàn chỉnh đồng thời cắm biển vương quyền nhằm phát huy vai trò quản lý lãnh thổ của Nhà nước phong kiến. Sự kiện quan trọng này đã được ghi lại trong “ Đại Nam Thực Lục Chính Biên ” như sau: “ Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17, 1836. Bộ Công tâu: xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta rất hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ nhưng vì tình thế xa rộng, nên mới chỉ vẽ được một nơi, lại cũng chưa biết rõ nên làm thế nào. Hàng năm thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, họ phái thủy quân, biền binh và giám thành đáp một thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Nghĩa, Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi thì cứ chiếu chỗ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, nước biển bốn bên, chung quanh nông sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản đồ. Lại chiếu ngày khởi hành, từ biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến nơi ấy, căn cứ vào thủy trình đã đi qua, tính ước bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng là vào tỉnh hạt nào, ước lượng cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm, đều nhất nhất phải nói rõ, lần lượt đem về dâng trình”(9).
“ Vua y lời tấu sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, chuẩn bị mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi dựng lên làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc chữ “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân” (tức năm 1836). Thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ” (9).
Vào năm Đinh Mão, năm Minh Mạng thứ 20 (1867), nhà vua đã ban “ Văn Khao Lề Thế Lính Trường Sa ” để phong cho các binh sĩ trong Đội Trường Sa đã hy sinh tại Hoàng Sa trong quá trình phục vụ Triều Đình danh hiệu cao quý “ Hùng binh Trường Sa ” (17,1).
Dưới thời kỳ Pháp thuộc, sau khi thiết lập chế độ bảo hộ đối với Việt Namtheo Hiệp ước ký ngày 6/6/1884, nước Pháp danh nghĩa Việt Nam , tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ 1920, quân đội Pháp ở Đông Dương đã tiến hành tuần tra quần đảo Hoàng Sa bằng hải quân và hải quan Pháp cũng tiến hành kiểm tra chống buôn lậu ở quần đảo này. Trong những năm 1925, 1927, tàu nghiên cứu của Viện Hải dương học Nha Trang đã tiến hành các cuộc khảo sát về địa lý biển và sinh học biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1939, toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã cho xây bốn hải đăng ở bốn góc quần đảo Hoàng Sa.
Sau khi quân đội Nhật Bản chiếm vùng Mãn Châu của Trung Hoa (1931) và gây ra sự kiện Lư Cầu Kiều ở nước này (1937) mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Trung Hoa, vua Bảo Đại đã ra Dụ số 10 ngày 30/3/1938, tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Quảng Nghĩa và đặt vào địa phận của tỉnh Thừa Thiên thành một đơn vị hành chính riêng. Dụ đó đã ghi rõ “ nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên” để trực tiếp quản lý (18). Toàn quyền Đông Dương cũng ra Nghị định số 156-SC ngày 15/6/1938 và đưa một đơn vị quân đội đến đóng tại quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời Triều đình Huế và Phủ Toàn quyền Đông Dương đã dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa ghi dòng chữ bằng tiếng Pháp: “ Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – quần đảo Hoàng Sa 1816, đảo Hoàng Sa, 1938” (4).
Tiếp đó, ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương J.Brévié lại ra Nghị định số 2382 tách quần đảo Hoàng Sa thành hai bộ phận và thành lập hai cơ quan đại lý hành chánh mang tên “ Lưỡi liềm và phụ thuộc” và “ An Vĩnh và phụ thuộc” với hai trụ sở đặt tại đảo Hoàng Sa và đảo Phú Lâm (24).
Để chuẩn bị việc mở rộng xâm lược các nước Đông Nam Á, quân đội Nhật Bản đã chiếm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào tháng 2/1942. Hành động xâm lược này của Nhật Bản đã bị chính phủ Pháp phản kháng mạnh mẽ.
Để chống lại cuộc xâm lược của Nhật Bản, trong khi cuộc chiến tranh thế giới đang diễn ra, Tổng thống Mỹ Franklin D.roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa dân quốc Tưởng Giới Thạch đã bí mật họp tại Cairo vào tháng 11/1943 và ra “ Tuyên bố Cairo ” mà ba nước thỏa thuận với nhau rằng: “ Mục tiêu của ba nước là Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các quần đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật Bản đã cướp đoạt hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vào năm 1914 và tất cả những lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan, bành Hồ sẽ được trả lại cho Trung Hoa dân quốc” (30,4).
Như vậy rõ ràng là Tuyên bố Cairo mà trong đó có đại diện nước Trung Hoa ký, đã không ghi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Hoa.
Trong Bản tuyên ngôn Postdan ngày 26/7/1945 giữa ba nước Anh, Mỹ, Trung Hoa dân quốc, một lần nữa ba đại diện của các nước đó xác nhận Tuyên bố Cairo . Sau khi tuyên chiến với Nhật Bản ở Viễn Đông, Liên Xô cũng tham gia Tuyên ngôn này (31,4).
Trong khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đang diễn ra, tại Hội nghị San Francissco tháng 9/1951, đại diện Liên Xô đã đề nghị trao các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nhưng đề nghị này đã bị Hội nghị bác bỏ (với 3 phiếu thuận và 48 phiếu chống). Cũng tại hội nghị này, ngày 7/9/1951, Thủ tướng của Việt Nam (chính phủ Bảo Đại) đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của Nhà nước Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của bất cứ một nước nào.
Ngày 8/9/1951, Hòa ước ký giữa các nước Đồng minh và Nhật Bản trong đó đã ghi rõ Nhật Bản phải từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa và không nói tới việc trao trả hai quần đảo này cho Trung Hoa.
Hiệp ước Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954, các nước công nhận nền độc lập thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nhưng Việt Nam tạm thời chia làm hai miền và lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 oBắc trở vào, gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa quản lý, nhà cầm quyền Sài Gòn có trách nhiệm tiếp quản hai quần đảo đó từ tay người Pháp.
Tháng 4/1956, lợi dụng khi quân Pháp rút khỏi quần đảo Hoàng Sa mà quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa kịp đến thay thế, quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chiếm đóng trái phép phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 8/6/1956, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc.
Đêm 20 rạng ngày 21/2/1959, quân Trung Quốc chiếm đóng phía Đông quần đảo Hoàng Sa giả làm ngư dân có vũ trang đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây để chiếm toàn bộ quần đảo, đã bị quân đội Việt Nam Cộng hòa phản kích và đã bắt gọn 81 “ngư dân” và 5 “thuyền đánh cá” có vũ trang (4).
Ngày 13/7/1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã ký sắc lệnh số 174-NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và đặt tên mới là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang (20).
Lợi dụng tình hình quân đội Việt Nam Cộng hòa phải đối phó với các lực lượng vũ trang của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, ngày 19/1/1974, Trung quốc đã dùng không quân và hải quân đánh chiếm trái phép phần Tây của quần đảo Hoàng Sa. Quân đội Sài Gòn đánh trả quyết liệt, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã yêu cầu Mỹ yểm trợ bằng không quân để giữ vững các hòn đảo phía tây, nhưng Mỹ bị ràng buộc bởi Thông cáo chung Thượng Hải ký với Trung Quốc trước đó vào năm 1972, nên đã thông qua Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ là Arthur Hummel trả lời cho chính quyền Sài Gòn là Mỹ “ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa” (4,21,22).
Ngày 20/1/1974, đại diện chính phủ Việt Nam Cộng hòa tại Liên hiệp quốc đã gửi Công hàm tố cáo hành động xâm lược của Trung Quốc tại Hoàng Sa cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an và Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc. Đồng thời ngày 2/2/1974, đại diện của đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố 3 điểm nhân việc Trung Quốc đánh chiếm phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa (4).
Đến ngày 14/2/1974, Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Cộng hòa công bố sách trắng về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (4).
Ngày 9/9/1974, đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Khí tượng thế giới họp tại Colombo đã yêu cầu Tổ chức Khí tượng Thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa (4).
Sau khi nước Việt Nam thống nhất vào năm 1975, nhiều lần Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định chủ quyền của mình đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; ngày 15/3/1979, Việt Nam đã công bố sách trắng về vấn đề biên giới Việt - Trung, trong đó có nội dung tố cáo Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa; ngày 8/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố một số tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa; tháng 12/1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố sách trắng “ Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam” (3); tháng 4/1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam lại công bố thêm cuốn sách trắng: “ Các quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa và luật pháp quốc tế” (1).
Để biện minh cho danh nghĩa pháp lý của mình về Tây Sa (tức Hoàng Sa), Trung Quốc đã nói không đúng sự thật rằng họ là người phát hiện sớm nhất một số đảo ở ngoài biển Trung Hoa mà họ cho đó là Hoàng Sa. Và họ đã nêu ra các sự kiện lịch sử sau nhằm làm luận cứ:
- Dưới đời nhà Tống, thế kỷ 11, Trung Quốc đã cử thủy quân đi tuần tiễu quần đảo Tây Sa tức Hoàng Sa.
Về luận cứ này, họ đã nêu ra rằng theo sách sử “ Vũ Kinh Tổng Yếu ” vua Tống Nhân Tông (1023-1063) đã “ lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ. Đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay)… “từ Đồn Môn Sơn dùng gió đông đi về hướng tây - nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu”. Sau đoạn trích này, họ khẳng định: “Cửu Nhũ Long Châu” tức quần đảo Tây Sa ngày nay: Điều đó chứng tỏ triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình” (25).
Nhưng thực ra, khi nghiên cứu nguyên bản cuốn “ Vũ Kính Tổng Yếu ” của Trung Quốc, các nhà sử học nước ta nhận thấy rằng sự kiện đã ghi lại trong cuốn sách đó chủ yếu là việc ghi lại hành trình đi đường biển đến các nước Đông Nam Á và Ấn Độ, đến các xứ Cửu Nhũ Loa Châu, Cù Lao Chàm của Chămpa, các nước Đại Thực, Phật Sư Tử, Thiên Trúc… mà không nói gì về việc thủy quân nhà Tống đã đến Cửu Nhũ Loa Châu. Đây là sự trích dẫn không trung thực của Trung Quốc về tư liệu cổ, xuyên tạc lịch sử nhằm bảo vệ cho luận cứ thứ nhất mà họ đưa ra (1,4).
- Dưới thời Nhà Nguyên, thế kỷ 13, Trung Quốc đã đo đạc thiên văn ở phía Nam Chu Nhai, tức phía Namđảo Hải Nam .
Về luận cứ này, họ đã nêu lên rằng theo “ Nguyên sử ” thì như vậy là “ cương vực đời Nguyên bao gồm các đảo Nam Hải không những phái quan chức đến quần đảo Tây Sa đo đạc mà còn đặt cơ sở thiên văn, thực hiện chủ quyền ở đây”. Nhưng trớ trêu thay, chính trong cuốn “ Nguyên Sử ” lại nói rõ rằng cương vực Trung Hoa thời đó ở phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam, điều đó có nghĩa là các đảo ở phía dưới của đảo đó (trong đó có quần đảo Hoàng Sa) là không thuộc lãnh thổ của Trung Hoa (1,4).
- Dưới thời Nhà Thanh, tướng Ngô Thăng đã đi tuần tiễu vùng biển Tây Sa.
Về luận cứ này, họ nêu ra sự kiện phó tướng thủy quân nhà Thanh Ngô Thăng, vào khoảng năm 1710 đã “ từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, qua Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm, đích thân đi tuần tra xem xét” và trên cơ sở đó họ khẳng định Thất Châu Dương là vùng biển Tây Sa (tức Hoàng Sa) ngày nay mà lúc đó hải quân tỉnh Quảng Đông thuộc nhà Thanh đã đặt dưới quyền kiểm soát của họ (1,4).
Nhưng sự thật là như thế nào? Khi nghiên cứu địa lí lịch sử Trung Hoa, các nhà nghiên cứu của ta có thể nói rằng các địa danh đã nêu như Quỳnh Nhai, Đồng Cổ, Tứ Canh Sa không có gì khác là các tên gọi của các vùng nằm ở ven bờ biển của đảo Hải Nam, còn địa danh Thất Châu Dương là vùng biển nằm giữa bờ biển Đông Bắc của đảo Hải Nam và nhóm bảy hòn đảo ở Đông Bắc của đảo Hải Nam đâu phải là vùng biển Tây Sa! (1,4). Bất kỳ một người nào khi xem bản hải đồ tỷ lệ 1/500.000 in bằng hai thứ tiếng Trung Hoa và Việt Nam do Trung Quốc in năm 1965 và tờ “ Báo đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam ” và “ Hải Nam địa hình đồ ” do Nhà xuất bản Địa đồ Trung Quốc ấn hành tháng 5/1984 cũng biết rõ đâu là sự thật (28,1,4).
Nói tóm lại, cả ba sự kiện mà Trung Quốc đã nêu lên ở trên như những luận cứ cho danh nghĩa lịch sử về chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa rõ ràng là xuyên tạc lịch sử và địa lý.
Cần nói thêm rằng tất cả các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc trước đây đều vẽ điểm cực nam là đảo Hải Nam . Bản đồ “ Hoàng Triều Nhất thống Dư Địa Tông Đồ ” của Trung Hoa xuất bản năm Quang Tự thứ 20 (1894) chỉ vẽ đến đảo Hải Nam, trong đó có lời chú giải ghi rằng điểm cực Nam của lãnh thổ nhà Thanh là “ Châu Nhai, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông, 18 o13’ Bắc”, không có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (1).
Trong cuốn sách địa lý “ Trung Quốc Địa Lý học Giáo Khoa Thư ” tập I do tác giả Vũ Tiến Đồ biên soạn vào năm Quang Tự thứ 31 (1905), được xuất bản năm 1906, cũng đã ghi rõ: “ Điểm tận cùng phía Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam), vĩ độ 18 013’ Bắc” cũng không có các đảo Hoàng Sa và Trường Sa (1).
Theo bản đồ toàn nước Trung Hoa dưới thời Nhà Thanh “ Đại Thanh Đế Quốc ” trong cuốn “ Đại Thanh Đế Quốc Toàn Đồ ”, xuất bản năm 1905 và được tái bản lại năm 1910, điểm cực Nam của Trung Hoa vẫn là đảo Hải Nam, hoàn toàn không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (27).
Một sự kiện lịch sử cần lưu ý là sau các vụ đắm các tàu buôn của Anh “Bellona” và “Imefi maru” vào năm 1895 và 1896 tại vùng biển Hoàng Sa, lãnh sự Anh tại Trung Hoa đã hỏi Nhà Thanh về các vụ việc này thì nhà đương cục Lưỡng Quảng của Trung Hoa đã trả lời rằng “ Tây Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc” (1).
Khi so sánh một cách khách quan các cứ liệu của phía Việt Nam và phía Trung Quốc nêu ra, người ta có thể khẳng định rằng hàng trăm năm trước đây, Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chỉ từ năm 1956 đến 1974, Trung Quốc mới từng bước dùng quân sự chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa và năm 1938 đối với 7 bãi đá ở Trường Sa của Việt Nam.
Trong thực tế lịch sử, Nhà nước Việt Nam đã thực sự chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa muộn nhất là vào thế kỷ 17 và từ đó đã thực hiện thực sự, liên tục và hòa bình chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó.
Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã được nhiều Tuyên bố, Hiệp ước quốc tế công nhận phù hợp với Công pháp Quốc tế và yêu sách của Trung Quốc về hai quần đảo này là không có căn cứ lịch sử và pháp lý.
Bởi vậy, trong buổi phát thanh của Đài phát thanh RFI (Pháp) vào ngày 1/11/1999, nữ luật sư Moliffe Gendreau, chuyên gia về Luật quốc tế dân sự, đã khẳng định: “ Việt Nam là quốc gia duy nhất có đầy đủ bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa”. Bà cũng đã nói: “Trung Quốc không bao giờ có những cơ sở lịch sử vững chắc để đòi hỏi chủ quyền của mình đối với các quần đảo trên Biển Đông” (32)./.
Nguyễn Phước Tương
Tư liệu dẫn:
1. Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam . Các quần đảo Hoàng sa - Trường Sa và luật pháp quốc tế, 1988.
2. Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam . Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, 1979.
3. Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam . Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa: lãnh thổ Việt Nam, 1981.
4. Lưu Văn Lợi. Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, 1995.
5. Thư viện KHXH Hà Nội. Đỗ Bá Công Đạo. Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, Hồng Đức Bản Đồ.
6. Jean Louis Taberd. Note on the geography of Cochinchina. The Journal of the Asiatic Society of Bengal. Calcutta , 9/1849.
7. Gutztaff. Geography of Royaume of Cochinchina. Journal of geographical Society of London , 1837, Vol XIX.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, 1844.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục Chính Biên, quyển 104, 1848.
10. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục Chính Biên, quyển 165, 1848.
11. Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, 1843-1851.
12. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 6: tỉnh Quảng Nghĩa.
13. Lê Quý Đôn. Phủ Biên Tạp Lục, quyển 2, 1776.
14. Phạm Huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, quyển 5, 1821.
15. Nguyễn Thông. Việt Sử Cương Giám Khảo Lược, 1876.
16. Châu bản triều Nguyễn số 000 835. Thư viện KHXH Hà Nội.
17. Văn Khao Lề Thế Lính Trường Sa, 1867.
18. Nam Triều Quốc Ngữ Công Báo, 1938, N 08; tr.233.
19. Bulletin Administratif de l’Annam, 1939, N 09.
20. Sawcs lệnh số 174 – NV ngày 13/7/1961 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
21. Bộ Tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng hòa. Quần đảo Hoàng Sa và trận hải chiến lịch sử ngày 19/1/1974. Sài Gòn 1974.
22. Nội San Hải Quân. Sự kiện Hoàng Sa và quá trình chiếm đóng Hoàng Sa của bành trướng Trung Quốc, Hải Phòng 1974.
23. Quyết định số 194-HĐBT ngày 9/12/1982 của Hội đồng Bộ trưởng nước CHXHCN Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng 1982.
24. Nghị định số 2382 ngày 5/5/1939 của Toàn quyền Đông Dương thành lập tại quần đảo Hoàng Sa hai cơ quan Đại lý hành chánh mang tên “Lưỡi liềm và phụ thuộc” và “An Vĩnh và phụ thuộc”, 1939.
25. Vũ Kinh Tổng Yếu, quyển 20.
26. Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư của Đỗ Bá, thế kỷ 17.
27. Đại Thánh Đế Quốc Toàn Đồ, 1905 và 1910.
28. Bản đồ Bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam, 1984.
29. Tuyên bố Cairo, 1945.
30. Bản tuyên ngôn Posdam, 1945.
31. Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hoá Việt Nam . Tập I, 1994.
32. Việt Nam là nước duy nhất có đủ chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Báo Quân đội nhân dân ngày 3/11/1999.