Phẫu thuật và phẫu thuật nội soi
Tuy mang lại lợi ích lớn trong việc chữa trị, nhưng phẫu thuật cũng xâm hại ít nhiều đến cơ thể người bệnh như vết mổ gây đau đớn, để lại di chứng trên cơ thể như để lại sẹo, tổn thương nơi đường mồ đi qua… Thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, làm cho người bệnh lo sợ khi bác sĩ đề nghị cần phẫu thuật. Vì vậy, các nhà phẫu thuật đã tìm cách để cuộc mổ ít gây tổn thương (từ y khoa gọi là ít xâm hại hay ít xâm lấn) cho bệnh nhân: từ việc mổ mở (hay mổ banh) với vết mổ dài đã chuyển sang mổ nội soi với ba ống nhỏ luồn từ da vào đến nơi cần để mổ (để chiếu sáng phẫu trường, thao tác cuộc mổ và hút dịch – máu) nên sẹo mổ nhỏ hơn rất nhiều. Mỗi chuyên khoa đều có những nhà ngoại khoa đi tiên phong trong lĩnh vực nội soi.
Trong phẫu thuật thần kinh, nội soi được bắt đầu từ năm 1910, khi L’ Espinasse ở Chicago (Mỹ) dùng ống nội soi bàng quan để mổ lấy đi đám rối mạch mạc ở hai bệnh nhi bị não úng thuỷ (đầu trướng nước). Những năm sau đó, nội soi thần kinh được thực hiện để mở thông não nhất III. Vài thập niên gần đây, phẫu thuật nội soi thần kinh đã được áp dụng rộng rãi để mổ lấy u tuyến yên qua mũi, lấy u sàn sọ, mổ cột sống, nội soi hỗ trợ mổ vi phẫu. Phẫu thuật nội soi giúp cho các phẫu thuật viên thần kinh tiếp cận và quan sát tốt các vùng trọng yếu của não tuỷ, đạt kết quả điều trị tốt nhất.
Năm 1977, Dekok thực hiện cắt ruột thừa có nội soihỗ trợ và đem ruột thừa ra ngoài qua đường mở nhỏ ổ bụng. Năm 1983, Semm thực hiện cắt ruột thừa qua nội soi hoàn toàn, không có đường mở bụng.
Tại Pháp, năm 1987, Philippe Mouret là người đầu tiên thực hiện phẫu thuật cắt túi mật qua nội soiổ bụng. Sau đó, phẫu thuật nội soi được áp dụng rộng rãi ở các chuyên khoa khác: lồng ngực, sản phụ khoa, xương khớp, tim mạch, thần kinh, tai mũi họng…
Trong lĩnh vực niệu khoa, phẫu thuật nội soi cắt thận đầu tiên trên thế giới vào năm 1990 tại bệnh viện Đại học Washington – Hoa Kỳ, do bác sĩ Ralph Clayman thực hiện. Đến năm 1995, phẫu thuật nội soi cắt thận để lấy thận ghép được thực hiện tại bệnh viện Đại học John Hopkins – Hoa Kỳ. Năm 2000, phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc với hỗ trợ của robot được thực hiện tại bệnh viện Henri Mondor – Pháp.
Năm 1990, tại Florida – Hoa Kỳ, Moises Jacobs đã thực hiện phẫu thuật cắt đại tràng có nội soihỗ trợ, sau đó đại tràng được mang ra ngoài qua một vết mổ nhỏ ở bụng. Năm 1991, Patrichk Leahy thực hiện phẫu thuật nội soi hoàn toàn để cắt trực tràng, điều trị ung thư. Sự ra đời của dụng cụ khâu nối trong phẫu thuật nội soi cắt đại trực tràng đã giúp cho bệnh nhân ung thư trực tràng bảo tồn được cơ vòng hậu môn, thay vì cắt bỏ hậu môn như trước đây, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau mổ.
Phẫu thuật nội soi lồng ngựcđược thực hiện lần đầu tiên vào năm 1910, do Jacobacus thực hiện để chẩn đoán và điều trị tràn dịch màng phổi chủ yếu do lao. Sau đó, khoảng năm 1950, các thuốc điều trị lao phát triển mạnh nên phương pháp nội soi hút dịch màng phổi bị xem nhẹ và quên lãng. Đến năm 1990, phẫu thuật nội soi lồng ngực được áp dụng rộng rãi và hiện nay là kỹ thuật cơ bản để điều trị các bệnh tràn khí màng phổi, tràn dịch màng phổi, chống trào ngược dạ dày thực quản, co thắt tâm vị, cắt thần kinh giao cảm, cắt thần kinh tạng, cắt phổi, cắt thực quản, để chẩn đoán ung thư phổi.
Hiện nay, phần lớn phẫu thuật vùng bụng:Từ những phẫu thuật đơn giản như cắt túi mật, cắt ruột thừa, cắt
![]() |
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các trang thiết bị máy móc dùng trong phẫu thuật nội soi cũng được phát triển, như màn hình rộng 3D giúp cảm nhận được không gian ba chiều và có độ nét cao giúp quan sát rõ nên phẫu thuật tỉ mỉ và chính xác hơn, sợi dẫn truyền quang học và thiết bị chiếu sáng phẫu thuật tốt hơn, ống soi mềm có thể xoay được 4 hướng giúp quan sát rõ các vị trí, góc độ khác nhau khi mổ, thay cho ống cứng trước đây; dụng cụ nhỏ hơn giúp vết mổ nhỏ hơn, máy khâu nối đại tràng dùng trong cắt đại tràng.
Kỹ thuật hiện đạicòn giúp các nhà phẫu thuật tiến sâu hơn trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi với việc phẫu thuật qua các lỗ tự nhiên (như miệng, hậu môn, âm đạo) không để lại sẹo, gọi là kỹ thuật mổ nội soi không có đường mở bụng, thí dụ: cắt khối u đại tràng hay cắt đại tràng qua ngả hậu môn, cắt u buồng trứng, u xơ tử cung qua ngả âm đạo. Phẫu thuật nội soi với sự hỗ trợ của robot rất hiệu quả trong các trường hợp phẫu thuật trường hạn chế, cần khâu (may) và cột chỉ nhiều. Tuy nhiên, sự phát triển của phẫu thuật bằng robot chưa rộng rãi do giá trang thiết bị và dụng cụ tiêu hao còn cao. Trong các trường hợp thông thường, phẫu thuật nội soi bằng robot chưa chứng tỏ được ưu điểm so với mổ nội soi không robot.
Ở Việt Nam, phẫu thuật nội soi bắt đầu áp dụng trễ hơn thế giới 5 năm.Đến nay, một số bệnh viện lớn đang bắt kịp trình độ kỹ thuật của các trung tâm lớn trên thế giới. Mục tiêu hiện tại chưa phải là phát triển các phẫu thuật nội soi phức tạp đòi hỏi chi phí rất cao, mà cần phát triển rộng rãi các phẫu thuật nội soi thông thường để phục vụ số đông bệnh nhân.
Ưu điểmcủa phẫu thuật nội soi là: vết mổ nhỏ, ít đau, mất máu ít, hạn chế được nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện, giảm thời gian nằm viện và nghỉ ốm, ít ảnh hưởng thẩm mỹ.
Tuy nhiên phẫu thuật nội soi vẫn còn một số hạn chế:
- Phải đào tạo lại phẫu thuật viên trên cơ sở ngoại khoa truyền thống.
- Phẫu thuật viên không thể sờ nắm khối u hay chỗ tổn thương như khi mổ để đánh giá tại chỗ tình trạng bệnh lý.
- Mổ nội soi chưa thể thay thế tất cả mổ mở vì có những trường hợp khối u quá lớn, cắt gan quá lớn… không thể thực hiện được qua nội soi.
- Phẫu thuật nội soi phải bơm khí CO2 vào ổ bụng để dễ dàng quan sát bên trong, nhưng việc bơm hơi gây căng dãn đột ngột phúc mạc, có trường hợp người bệnh không chịu được.
- Không thực hiện được khi cần mổ khẩn cấp, do cần thời gian chuẩn bị.