Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 07/08/2014 17:10 (GMT+7)

Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài (tiếp)

  4. Đội ngũ giáo viên quyết định chất lượng giáo dục

Hiếu học và tôn sự trọng đạo là truyền thống của dân tộc ta. Từ xưa đến nay trong dân gian ai cũng thuộc câu ca: “Muốn khôn thì phải có thầy”; “Không thầy dạy dỗ, đố mày làm nên”; “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”; “Không thầy đố mày làm nên”... 

Cả đến khi công thành doanh toại, người ta cũng nhắc nhau: “Mười năm rèn luyện sách đèn, công danh gặp bước chớ quên ơn thầy”. 

Trong suốt cuộc đấu tranh trường kỳ giữ nước và dựng nước, toàn dân ta, Đảng ta, nhà nước ta luôn luôn tôn vinh nghề dạy học và vị trí cao cả của người thầy. Đảng ta có đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục; người thầy giáo là chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng - văn hoá. Đó là những người truyền thụ cho thế hệ trẻ lý tưởng và đạo đức cách mạng, bồi đắp cho họ nhân cách văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, dạy cho họ có tri thức và kỹ năng lao động nghề nghiệp, tạo nên những lớp người có ích cho đất nước. 

Bác Hồ đã nói: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh” (7)

Bác Phạm Văn Đồng cũng nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý vào bậc nhất trong các nghề cao quý... nghề dạy học là một nghề sáng tạo vào bậc nhất trong các nghề sáng tạo..., vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định đội ngũ giáo viên giữ vai trò quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh. 

Nền giáo dục nước nhà có một đội ngũ đông đảo những người có tâm hồn trong sáng, có lý tưởng cao cả, suốt đời vì nước vì dân, tất cả vì học sinh thân yêu, với những tấm gương tiêu biểu soi sáng muôn đời sau, như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Siêu, Võ Trường Toản..., và ở thời đại chúng ta như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành, và sau này có Nguyễn Văn Tố, Cao Văn Thỉnh, Phạm Thiều và biết bao các nhà giáo tiêu biểu khác, như thầy Dương Quảng Hàm, thầy Nguyễn Hữu Tảo, thầy Đặng Thai Mai, thầy Hoàng Ngọc Phách, cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, cố Bộ trưởng Tạ Quang Bửu... Đó là một số ít thầy trong đội ngũ trùng điệp rất đáng quý trọng của chúng ta. 

Trong suốt nửa thế kỷ qua, đội ngũ chúng ta có mặt ở khắp mọi miền đất nước, không quản khó khăn nhọc nhằn, vượt qua gian khổ thiếu thốn dành toàn bộ tài năng tâm trí cho lớp lớp con em trưởng thành, sẵn sàng cống hiến cho sự nghiệp giữ nước và dựng nước. 

Chính nhờ những đóng góp, hy sinh vì sự nghiệp “Trăm năm trồng người” của các thế hệ nhà giáo nước nhà, cùng với sự chăm sóc của toàn Đảng, toàn dân, ngày nay nước nhà đã có một nền giáo dục nhân dân. Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà chúng ta có một nền quốc học nhân dân có đủ khả năng đào tạo từ mẫu giáo đến bậc tiến sĩ. 

Bên cạnh niềm vui và tự hào, trong lòng mỗi người chúng ta điều khó tránh khỏi nỗi lo lắng trước tình hình giáo dục còn nhiều khó khăn, thiếu sót, yếu kém, tiêu cực, khiến cả xã hội không yên tâm, đòi hỏi phải mau tìm ra các giải pháp có hiệu lực để khắc phục. Chúng ta phấn khởi chào đón Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) khẳng định giáo dục, khoa học, công nghệ phải thực sự là quốc sách hàng đầu. Một chân trời mới đang mở ra trước nhà trường và nhà giáo. Đội ngũ giáo viên đang có và sẽ được tiếp thêm sức mạnh và niềm tin. Có điều chúng ta phải nhắc nhở nhau chính là sự nỗ lực tự thân mỗi người. Mọi người trong chúng ta đều nhớ một chân lý của mọi thế hệ thầy giáo là muốn giáo dục người khác, trước hết phải tự giáo dục mình: tự rèn luyện bản thân, tự bồi dưỡng trình độ, tự bảo vệ và nâng cao uy tín, xứng đáng với lòng tin và mong đợi của đồng bào vào con em chúng ta. Những nhiệm vụ mới của một xã hội công nghiệp, hiện đại, văn minh, công bằng đang đặt ra cho ngành giáo dục, đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải vươn lên ngang tầm với yêu cầu của thời đại. 

Trong báo cáo “Học tập: của cải nội sinh” của Uỷ ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI, sau phần tổng quát dưới đầu đề “Giáo dục: sự không tưởng cần thiết” của ông Giắc Đơlo, Chủ tịch Uỷ ban, đã dành hẳn toàn bộ chương 7 nói về thầy giáo khẳng định vai trò quyết định của người thầy giáo trong việc chuẩn bị thế hệ trẻ có trách nhiệm xây dựng tương lai của nhân loại theo hướng toàn cầu hoá (“xây dựng toàn cầu”), đoàn kết, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, sống trong hoà bình, bao dung. Tất cả phụ thuộc rất nhiều vào việc đội ngũ giáo viên phải rèn luyện được ở thế hệ trẻ một trí tuệ nghiêm túc, tình cảm sâu sắc, thông cảm lẫn nhau cùng với tính độc lập ngày càng cao. Trong báo cáo này cũng khẳng định “mối quan hệ đầy sức mạnh giữa thầy và trò giữ vị trí trung tâm trong quá trình giảng dạy”. Thầy giáo là yếu tố quyết định hàng đầu đối với chất lượng giáo dục, do đó muốn phát triển giáo dục thì trước hết và trên hết phải phát triển đội ngũ giáo viên cả về số lượng và chất lượng. 

Tìm hiểu bản chất sứ mệnh của nhà giáo trong việc phục vụ xã hội, xem xét hiệu quả của mọi hoạt động giáo dục tức là xem xét phản ứng của xã hội trước những kết quả của giáo dục đạt được thông qua việc đánh giá chất lượng giáo dục học sinh, sinh viên. 

Nhiều cuộc thảo luận về cải cách giáo dục đã khẳng định rằng, những quan điểm đơn giản về dạy và học trước đây đã không còn phù hợp nữa, những quan niệm cho rằng chỉ cần để học sinh tiếp xúc với một ông thầy thông thái và đạo đức tốt là tự khắc chúng sẽ dần dần khá lên. Đến nay, qua thực tế kiểm nghiệm là không chính xác, vì thầy giáo chỉ là nhân tố quan trọng nhất quyết định chất lượng học tập chứ không phải là tất cả, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố khác. Quan niệm đó sẽ không bao giờ dẫn đến một hệ thống giáo dục hoàn hảo, không đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên tin học. Vậy, hãy xét sự thay đổi về vai trò của người thầy giáo và sự phát triển tương ứng của những định chế giáo dục kèm theo. Người ta đã chia thời kỳ biến chuyển của giáo viên làm bốn thời kỳ: 

Thời kỳ thứ nhất: thời kỳ chuyển giao trực tiếp tri thức từ giáo viên đến học sinh. Ở thời kỳ này, với văn hoá truyền khẩu, người ta quan tâm nhiều đến ba ưu điểm của người thầy, đó là: có một tri thức rộng về những điều mà họ sẽ dạy cho học sinh; có khả năng truyền đạt tri thức; và một nhân cách mẫu mực làm gương cho học sinh. Kiến thức bao quát và trí nhớ tốt là những phẩm chất được quý trọng nhất đối với người giáo viên. 

Thời kỳ thứ hai: thời kỳ của những cải tiến mày mò để tìm một phương thức truyền đạt dễ hiểu và dễ tiếp thu hơn. Ở thời kỳ này, trên cơ sở ứng dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại, người thầy phải tìm ra một phương pháp truyền thụ tri thức cho học sinh sao cho hiệu quả nhất. Trước hết, đó là việc chọn và sắp xếp bài học của thầy giáo phải thật sự khoa học và logich bảo đảm truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách có hệ thống. Sau đó là tổ chức việc học tập cho học sinh một cách khoa học để có thể phát huy tính chủ động, sáng tạo trong học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. 

Thời kỳ thứ ba: thời kỳ biên soạn sách giáo khoa. Đây là một khâu hết sức quan trọng, bởi vì lượng kiến thức của nhân loại ngày càng nhiều, phong phú, đa dạng và thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi sách giáo khoa vừa phải bảo đảm đầy đủ lượng thông tin cần thiết để có thể kế thừa và phát triển những kiến thức truyền thống, vừa bảo đảm sự cập nhật thông tin mới, vừa không tạo nên sự quá tải cho chương trình giáo dục.

Thời kỳ thứ tư:thời kỳ của việc học tập và hướng dẫn. Ở thời kỳ này, người học quan tâm nhiều đến việc học tập giải quyết các hiện tượng tự nhiên và xã hội của môi trường xung quanh bằng cách quan sát trực tiếp và các bài tập thực hành. Các bài giảng trong sách giáo khoa lúc này chỉ dùng làm tài liệu hướng dẫn và tham khảo về những vấn đề cơ bản nhất. Lúc này, người thầy thực sự là người hướng dẫn và giải đáp những thắc mắc cho học sinh, giúp học sinh tự do và độc lập sáng tạo. 

Việc phân chia thành bốn giai đoạn như trên đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp giảng dạy. Lúc này, giáo viên không còn là cái ống dẫn thông tin đến với học sinh nữa, mà đã trở thành chất xúc tác của quá trình dẫn thông tin. Họ không còn là người đứng giữa môn học và học sinh mà trở thành người đứng bên cạnh học sinh để hướng dẫn và chăm sóc học sinh, tạo hưng phấn trong học tập và khuyến khích học sinh tìm tòi sáng tạo, giải đáp những thắc mắc của học sinh. Điều quan trọng là làm sao để cho học sinh có thể kiểm nghiệm lại tính đúng đắn của những bài học trong thực tế của đời sống xã hội. Dĩ nhiên, khi học sinh càng nhỏ tuổi thì ảnh hưởng của giáo viên đối với học sinh càng nhiều, nhưng đừng bao giờ quên rằng giáo viên chỉ là người trợ lực cho quá trình học tập của học sinh, còn học sinh phải tự mình học tập và sáng tạo. Nói cách khác, giáo viên muốn làm gì đi chăng nữa thì mọi tri thức được truyền thụ vẫn không có giá trị đích thực nếu họ không làm cho học sinh tự mình kiểm nghiệm và thực nghiệm những tri thức đó trong đời sống xã hội. 

Chúng ta cũng có thể nhìn thấy vai trò của người giáo viên thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại thông qua các tài liệu giảng dạy. Ở đây, có thể phân biệt làm ba giai đoạn của vai trò giáo viên.Thứ nhất, giai đoạn của giáo khoa. Ở giai đoạn này, giáo viên đứng trước lớp, dùng sách như là phương tiện giảng dạy duy nhất, cắt nghĩa bằng lời và trực tiếp hướng dẫn cách học bài cho học sinh.Thứ hai, giai đoạn của những tài liệu tham khảo. Việc tập trung vào sách giáo khoa vẫn như ở giai đoạn đầu nhưng được bổ sung thêm bằng những tài liệu làm cho nội dung sách càng phong phú thêm tranh ảnh, vật cụ thể, biểu đồ, mô hình... Những thứ này được đưa vào giờ học để tăng sức thu hút và kích thích lòng hiếu học của học sinh. Giai đoạn thứ ba học bằng kinh nghiệm bản thân. Ở giai đoạn này, môi trường tự nhiên và xã hội chính là những tài liệu giảng dạy mà giáo viên là người hướng dẫn, làm môi giới cho sự tiếp xúc trực tiếp giữa học sinh và thế giới xung quanh. 

Từ trước đến nay, theo phương pháp giảng dạy thông thường, giáo viên tốn nhiều thời gian vào việc thuyết trình những thông tin mà học sinh cũng có thể tự đọc lấy được trong sách giáo khoa hoặc các tài liệu tham khảo. Việc loại bỏ sự thông tin lại những điều đã được trình bày rõ ràng trong sách và bắt học sinh phải học thuộc lòng sẽ cho phép giáo viên tập trung vào những chương trình học mới, tìm tòi những thông tin mới nhằm nâng cao lòng tự tin của học sinh trong khi lĩnh hội những tri thức được trình bày trong sách giáo khoa cũng như những tri thức mới mà thầy giáo truyền thụ. Vậy, không nhất thiết mỗi môn học phải có một giáo viên, mà vấn đề ở đây là sắp xếp cụm chương trình như thế nào đó để không những sẽ hướng dẫn được học sinh học tập tốt hơn mà còn đem lại hiệu quả tri thức cao nhất cho người học. Trọng tâm của việc dạy và học lúc đó sẽ chuyển dịch từ chỗ giáo viên phải lên lớp 100% thời gian, tới việc đem lại ý thức học tự giác và sáng tạo cho học sinh và thời gian học trên lớp sẽ được giảm đi đáng kể. Trách nhiệm tự học của học sinh và những biện pháp khen thưởng của thầy giáo nhằm nâng cao vinh dự cho học sinh sẽ được quan tâm hơn nữa nhằm nâng cao ý tưởng giáo dục hiện đại tạo giá trị cho học sinh. Sự chuyển biến này chắc chắn sẽ đưa đến việc cải cách toàn bộ nền giáo dục, và chúng ta phải nhanh chóng bắt tay vào quá trình cải cách giáo dục một cách khoa học và thận trọng. Có như vậy, giáo dục mới dần dần phát triển đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá. Trong tương lai, chỉ khi nào các nhà giáo nhận thức được rằng mình thực sự là người bảo hộ về tri thức và nhân cách cho học sinh, hay nói đúng hơn là người bảo hộ về tri thức và nhân cách cho con cái chúng ta, thì khi đó mới thực sự là nhà giáo. Nếu quan niệm nhà giáo theo nghĩa đó thì nhà giáo phải là nhà đạo đức học ứng dụng. Họ phải luôn giữ tư thế của một quan toà phân định thiện, ác và có đủ can đảm bày tỏ chính kiến đúng đăn của mình, và hành động theo đúng chính kiến ấy. Dĩ nhiên, đây là một trách nhiệm hết sức to lớn và nặng nề và không phải trao vào tay ai cũng được ngoài các thầy cô giáo. 

Từ xưa đến nay, nghề dạy học luôn đòi hỏi người dạy phải là người thật sự gương mẫu, là tấm gương sáng về nhân cách, là người hướng đạo trên đường đời cho học sinh. Bất cứ ai và khi nào, khi bàn về một phầm chất lý tưởng mà nhà giáo phải có, thì ai cũng phải nghĩ tới mô hình những con người hết sức mẫu mực, có những phẩm chất mà toàn xã hội phải tôn trọng. Về điều này thì không có sự phân biệt giáo viên cấp tiểu học hay giáo viên đại học, không kể tuổi tác hay trình độ học vấn, mà quan trọng là người đó có thật sự có đủ tư cách là nhà giáo hay không. Một khi người dạy học mà không đạt được các tiêu chuẩn ấy thì không xứng đáng là thầy giáo. Nói cho thật cụ thể và chính xác, người giáo viên phải là một người có nhân cách và lối sống hết sức tốt đẹp, lời nói và việc làm phải luôn đi đôi với nhau, được đào tạo chuẩn mực và luôn luôn được rèn luyện trong môi trường tốt đẹp. Các khái niệm chung về phẩm chất của người thầy chung quy lại là vấn đề nhân cách, đó là cốt lõi của nghề giáo dục, vấn đề đó được thể hiện qua sự hài hoà giữa trí tuệ và cách ứng xử cá nhân của người thầy giáo. Từ những phân tích ở trên có thể thấy điều tối cần thiết trong việc lựa chọn giáo viên là phải chọn những người có nhân cách tốt, có như vậy mới hy vọng tránh được sự suy thoái của một nền giáo dục. 

Vậy, những tiêu chuẩn tối thiểu đối với một người giáo viên nói chung là gì? Trước hết, giáo viên phải là người có nhân cách mẫu mực để làm gương cho học sinh; được đào tạo chính quy và được trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận dạy học và phương pháp sư phạm.Thứ hai, giáo viên phải được trang bị kiến thức tương đối tổng quát và phải có một chuyên môn sâu để có thể đánh giá được tầm quan trọng của những tri thức chuyên môn của mình và đánh giá được nội dung các giáo trình trên bối cảnh chung.Thứ ba, giáo viên phải có khả năng hoạt động xã hội để tập hợp và tổ chức được các hoạt động cho học sinh; có thể hình dễ gần, không có dị tật.

5. Cải cách chương trình đào tạo giáo viên 

Việc tiến hành đào tạo giáo viên từ trước đến nay nhiều người quan niệm chỉ cần nắm vững chuyên môn là đủ, nhưng trong nền giáo dục hiện đại, việc đào tạo giáo viên cần được bổ sung ba yếu tố sau:Thứ nhất, phải được đào tạo một lượng tri thức tương đối rộng, học sâu một số môn chuyên ngành; bên cạnh đó phải được trang bị thêm một số môn học khác để phục vụ việc hiểu sâu hơn những môn chuyên ngành, và giải đáp cho học sinh những điều thắc mắc.Thứ hai, được huấn luyện phương pháp và kỹ năng dạy học một cách chu đáo và thường xuyên được trao đổi kinh nghiệm dạy học với các bạn đồng nghiệp.Thứ ba, thường xuyên được rèn luyện nhân cách, đặc biệt là vấn đề rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, phát triển tính cách, tăng cường ý thức của người giáo viên và là tấm gương sáng để làm “khuôn vàng, thước ngọc” cho học sinh noi theo. Đây là vấn đề quan trọng nhất đối với một người giáo viên. Về kiến thức, giáo viên phải được đào tạo chính quy cẩn thận, biết hướng dẫn, thu nhận và ứng dụng thông tin một cách thành thục để định hướng và tạo ra giá trị cho học sinh. Về phương pháp, phải được đào tạo và được sử dụng các kỹ thuật và công cụ dạy học vào việc truyền đạt tri thức đến học sinh hiệu quả nhất. Việc đào tạo giáo viên không nên theo hướng nhồi nhét kiến thức mà phải hướng dẫn họ tự khám phá và ứng dụng tri thức vào việc dạy học sau này. Trong việc đào tạo giáo viên thì đào tạo giáo viên tiểu học phụ trách một lớp học, họ không những là người truyền đạt tri thức tổng hợp cho học sinh, mà còn là người định hướng, định hình các giá trị đạo đức, nhân cách cho lớp người nhỏ tuổi trước khi bước vào đời. Tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người đều nhằm đạt được giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Đó cũng chính là công việc của giáo viên và của việc đào tạo giáo viên. 

Về phương diện Thiện (Đạo đức) là phương diện liên quan nhiều nhất đến việc tạo giá trị của giáo viên, vị trí ưu tiên là phải luyện cho tính cách người giáo viên có những phẩm chất đạo đức ở một mức độ cao hơn so với một người bình thường. Giáo viên cần có chí, cần được huấn luyện những phương pháp giúp học sinh học tập tạo giá trị, và họ cần trau dồi những phẩm chất đạo đức cho dù họ có dạy môn nào đi nữa. Nhưng lẽ dĩ nhiên họ cũng cần một trình độ tri thức sách vở nào đó để làm cơ sở, nền tảng cho việc tìm tòi và mở rộng tri thức trong quá trình dạy học. Vấn đề căn bản nhất và là nhân tố quyết định của giải pháp đào tạo giáo viên là phải làm sao nâng cao lương tâm nghề nghiệp của họ. Có lẽ hơn bất cứ nghề nào trong xã hội, giáo dục là một nghề phức tạp, đặc biệt và cao quý nhất, vì nó nhằm đến những giá trị của nhân cách của con người. Nó đòi hỏi một sự tổng hợp các phương tiện và mục đích, những thao tác có quy mô lớn và quy mô nhỏ, những kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, những phác thảo thô và những biểu đồ tỉ mỉ, làm thành cả một tiến trình có hệ thống và trật tự logich chặt chẽ. Vậy, người thầy phải có cả hai thứ: chuyên môn và khả năng đa dạng có thể ứng phó được với bất kỳ tình huống nào trong quá trình giảng dạy. Những năng lực nắm vững lý thuyết và thực tiễn, mục tiêu và phương tiện chỉ đến sau nhiều năm học hành và luyện tập. 

Cần phải chú ý rằng vai trò của giáo viên là khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của học sinh thay vì cứ áp đặt tài liệu sách giáo khoa bắt buộc họ học. Việc hướng dẫn của giáo viên theo ba khía cạnh sau: hương dẫn nhận thức; hướng dẫn đánh giá; hướng dẫn tạo giá trị. 

Trong nhà trường, học sinh học, sinh hoạt chung mang tính cộng đồng. Sự hoạt động này là kết quả ảnh hưởng lẫn nhau trong việc hình thành cá tính, học sinh sẽ trở thành nhân tố mới trong giáo dục hiện đại. Cách định nghĩa cũ về giáo dục – là sự truyền đạt tri thức có chủ đích cho người học theo một phương pháp quy định – không còn đúng nữa. Trong giáo dục hiện đại, vấn đề nghiên cứu tâm lý học để áp dụng đối với học sinh theo lứa tuổi, theo trình độ, theo giới tính cần được quan tâm hơn trước, bởi vì, hiện nay do áp lực của gia đình, cùng với việc dạy thêm, học thêm tràn lan đã gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của học sinh. Từ những phân tích ở trên cho thấy, bên cạnh những lĩnh vực chuyên môn sâu của mỗi môn học chúng ta cần cập nhật những thông tin mới có chọn lọc, và đối với những môn học truyền thống bắt buộc thì việc cải tiến chương trình đào tạo giáo viên cần theo hướng cung cấp thông tin có định hướng, tăng kỹ năng thực hành và lý luận dạy học; làm quen với phương pháp dạy học hiện đại, đó là nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề; biết cách sử dụng thành thạo các thiết bị dạy học. Cần đưa thêm môn học tâm lý lứa tuổi vào chương trình đào tạo giáo viên ở các cấp học để trợ giúp việc giáo dục học sinh ở mỗi cấp học có hiệu quả cao hơn. 

6. Tiếp tục đổi mới, chấn hưng sự nghiệp giáo dục

Tiếp tục đổi mới tư duy giáo dục, xem xét lại mục tiêu giáo dục, trên cơ sở đó biên soạn lại chương trình sách giáo khoa cho phù hợp với xu hướng phát triển khoa học và công nghệ của thế giới, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Trong những năm tới, trong nhà trường cần đặc biệt chú trọng việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, kết hợp giữa giáo dục hiện đại với giáo dục các giá trị truyền thống của dân tộc... 

Hiện nay, nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn còn là nền kinh tế sức người, với một số yếu tố của kinh tế tri thức. Nhưng trong tương lai không xa chắc chắn chúng ta phải tham gia vào nền kinh tế này qua thị trường lao động hay thương mại quốc tế, v.v... Chiến lược giáo dục – đào tạo phát triển toàn diện con người của chúng ta phải đáp ứng yêu cầu của cả ba nền kinh tế: kinh tế lao động, kinh tế tài nguyên và kinh tế tri thức. Một xã hội vẫn còn đan xen của ba nền kinh tế này đòi hỏi một cơ cấu giáo dục hợp lý nhằm phát triển toàn diện con người, phát triển nguồn nhân lực và cả nhân tài. Giáo dục cần gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, phát triển thị trường lao động, phát triển thị trường sản xuất, vì con người và phục vụ con người và còn phải phù hợp với hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay. 

Muốn thực hiện được mục tiêu phát triển toàn diện con người đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cần coi trọng cả giáo dục nhà trường lẫn giáo dục gia đình và xã hội. Trước hết, nói đến giáo dục nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân theo mục tiêu chiến lược là các tư tưởng chiến lược chỉ đạo sự phát triển nền giáo dục nước nhà đi vào thế kỷ XXI đã ghi trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Trong thời gian tới, những giải pháp chiến lược để có thể phát triển giáo dục, đòi hỏi chúng ta phải làm tốt mấy việc sau đây: 

●  Chuẩn hoá. Chúng ta đã hoàn thành mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, dân trí ngày một cao, nhân lực ngày càng được nâng cao dần về trình độ văn hoá, trình độ khoa học - công nghệ. Giờ đây, chúng ta đã có một hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh - một nền quốc học nhân dân, đủ sức để chuẩn hoá tất cả các trường, các cấp học và bậc học, hoạt động dạy và học, các phương tiện giáo dục – đào tạo nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Mọi thứ, từng bước, từng phần - từ thầy giáo, chương trình, sách giáo khoa đến lớp học, trường học, bàn ghế và nhất là trình độ phải đạt được sau một cấp học, bậc học, thiết bị dạy học... - đều phải đạt chuẩn, lúc đầu đạt chuẩn quốc gia và dần dần đến chuẩn quốc tế. Chuẩn hoá là tiêu chuẩn của công nghiệp hoá, văn minh, hiện đại. Chuẩn hoá nhà trường theo hướng giáo dục phát triển toàn diện con người và phát triển bền vững. 

●  Hiện đại hoá. Trước hết, nội dung giáo dục, chương trình, sách giáo khoa phải hiện đại hoá (đặc biệt chú ý các môn quốc ngữ, quốc sử, quốc văn cùng các môn công cụ như toán, tin học, ngoại ngữ và các môn thời sự toàn cầu - bảo vệ môi trường, giáo dục dân số, chống bệnh thế kỷ...) và cùng với nó là cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. Đặc biệt quan trọng là người dạy phải có tinh thần hiện đại hoá. Ngày nay, nhiều nước coi cá thể hoá phương pháp dạy và học và phương pháp “giải quyết vấn đề” là hướng chủ yếu để hiện đại hoá bộ môn giáo học pháp theo nguyên lý giáo dục, nhằm thức tỉnh tối đa tiềm năng của người học và hình thành ở người học khả năng thích nghi tốt nhất, nhanh nhất, tinh thần phê phán khách quan, khoa học, tư duy sáng tạo và có phương pháp tự học suốt đời. Ngày nay, nói đến hiện đại hoá giáo dục không thể không nói tới tin học hoá, sử dụng Internet. Nhịp độ đổi mới công nghệ diễn ra nhanh chóng và tính linh hoạt của thị trường lao động đã và đang làm cho tri thức nhanh chóng bị lỗi thời. Do vậy, giáo dục phải tạo cho con người tính nghi ngờ, tính tương đối của tri thức để nhanh chóng thích ứng với những tri thức mới. Giáo dục và đào tạo sẽ là nhân tố chính để duy trì và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc, phát triển xã hội và phát triển con người. 

●  Dân chủ hoá. Cần phân biệt  ba khái niệm: dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường, dân chủ hoá quản lý gáio dục. Dân chủ hoá giáo dục trước hết thể hiện ở chủ trương giáo dục cho mọi người, xoá mù chữ, từng bước phổ cập giáo dục từ thấp lên cao, đem lại tri thức, trí tuệ cho mọi người dân. Mọi người dân có quyền bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục: mọi người đều được đi học – đó là một quyền cơ bản của con người. Dân chủ hoá giáo dục đi liền với công bằng xã hội trong giáo dục, làm cho trường học thực sự là của dân. Người dân có trách nhiệm và quyền được góp ý kiến xây dựng, canh tân, cải cách nội dung, chương trình học, sách giáo khoa, kế hoạch dạy học, nhất là mục tiêu đào tạo, và tất nhiên tất cả việc triển khai thực hiện dạy và học. Đây chính là một nội dung của chủ trương thực hiện dân chủ ở cơ sở (nhà trường). Còn dân chủ hoá quản lý giáo dục trước hết là chống quan liêu, phiền hà, tham nhũng trong ngành giáo dục, là công minh, công khai, công bằng trong thực hiện các chính sách, chế độ và mọi hoạt động trong nhà trường, trong ngành giáo dục, nhất là đối với các khoản thu – chi tài chính và việc thi cử, tuyển sinh và cả việc lựa chọn nghề đào tạo để tăng khả năng tìm việc làm sau này. Dân chủ hoá quản lý giáo dục còn thể hiện ở ý thức tôn trọng các tổ chức chính trị của giáo giới, của người học và cơ chế phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức. Tất cả nhằm bảo đảm chất lượng giáo dục, mục tiêu giáo dục. Dân chủ hoá là tinh thần cốt yếu đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. 

●  Xã hội hoá giáo dục(8). Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của nhà nước mà là của toàn xã hội: mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, từ trung ương đến địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân. Xã hội hoá giáo dục là một trong những con đường thực hiện dân chủ hoá giáo dục. Xã hội hoá giáo dục trước hết nâng cao trách nhiệm của mọi người đối với giáo dục thế hệ trẻ, thực hiện theo cơ chế đại hội giáo dục từng địa phương, tạo nên một môi trường giáo dục thống nhất tốt đẹp của cả xã hội, gia đình, nhà trường; động viên tinh thần và vật chất, tạo thêm động lực cho người dạy; khen thưởng học sinh giỏi, nhất là đối với các em nghèo học giỏi, giúp đỡ các em khó khăn, khuyến khích các em chăm học. Xã hội hoá giáo dục cũng tăng thêm nguồn lực khác, nhất là nguồn lực tài chính cho giáo dục. Xã hội hoá giáo dục gắn liền với đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục. 

●  Đa dạng hoá các hình thức trường lớp. Phương thức đa dạng hoá trong giáo dục gắn liền với xã hội hoá; nó cũng gắn liền với dân chủ hoá giáo dục. Các trường, lớp, trung tâm giáo dục không phải chỉ dưới dạng công lập, mà còn có trường, trung tâm, lớp dân lập và tư thục. Đa dạng hoá các loại hình trường lớp, trên cơ sở mục tiêu đào tạo, nội dung giáo dục, chuẩn kiến thức đều thống nhất cho tất cả các loại hình trường. Đa dạng hoá giáo dục phải đi đôi với việc thống nhất quản lý chặt chẽ về quy mô, chất lượng và cơ cấu trong giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà nước thống nhất toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó tất cả các trường, ngoài công lập cũng như công lập, đều phải thực hiện theo Luật Giáo dục (9).

7. Phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Sau 15 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Đảng ta luôn coi giáo dục cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, coi con người là vốn quý nhất, đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã khẳng định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ” (10). Đó là mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta thông qua tại Đại hội VII (1991) cũng đã khẳng định: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội mà con người hoàn toàn được giải phóng, nhân dân lao động thực sự được làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được bảo đảm. Đó chính là quan điểm cơ bản về giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, ngày 11-12-1998 Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục, trong đó ghi rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (11). Phát triển toàn diện con người là phát triển đầy đủ các mặt “ đức, trí, thể, mỹ” và những năng lực vốn có của mỗi con người, nói gọn lại là phát triển hài hoà “ đức và tài”. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để con người tự phát triển về mọi mặt, trước hết là đạo đức, trí tuệ, thể lực và tính nhân văn của mỗi con người. Yếu tố quan trọng nhất để có thể phát triển toàn diện con người là phát triển giáo dục bởi vì: “Giáo dục là quá trình nâng cao tri thức và kỹ năng, mà trước hết, giáo dục là phương tiện đặc biệt mang lại sự phát triển cá thể người”. Mặt khác, phát triển giáo dục là cơ sở để chúng ta phát huy tốt nhất “ của cải nội sinh”, tạo nên sự phát triển đất nước một cách bền vững. Công việc tiếp theo của chúng ta còn rất nặng nề và nó vô cùng khó khăn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội phải cố gắng nhiều hơn nữa thì mới có thể thực hiện tốt được các mục tiêu đã đề ra trong các nghị quyết của Đảng và trong Luật Giáo dục. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang quyết tâm đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, trong hoàn cảnh quốc tế hoá đang dần trở thành một tất yếu khách quan, kinh tế tri thức cũng đang dần trở thành hiện thực ở một số nước trên thế giới, khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển nhanh chóng, làm thay đổi một số quan niệm truyền thống; ưu thế về trí tuệ sẽ từng bước thay thế ưu thế về vốn, tài nguyên và nhân công rẻ; ưu thế của sở hữu trí tuệ đang dần dần thay thế ưu thế về sở hữu vật chất; cạnh tranh trong tương lai chủ yếu sẽ là cuộc cạnh tranh trí tuệ và thông tin. Các nước phát triển nắm được khoa học công nghệ hiện đại đã và đang vươn lên làm chủ thế giới, khoảng cách giàu nghèo cũng ngày càng cách xa. Các nước đang phát triển nếu không cố gắng vươn lên để làm chủ khoa học công nghệ hiện đại thì sẽ có nguy cơ trở thành “thuộc địa kiểu mới” của các nước phát triển. Đây là thách thức rất lớn, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng thực hiện thành công chiến lược phát triển toàn diện con người, vì đó là nhân tố quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, đưa nước ta sớm hội nhập vào thế giới, tránh được nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước phát triển. Do đó, chiến lược phát triển toàn diện con người phải được ưu tiên hơn tất cả các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội khác, để cố gắng trong vòng 5 đến 10 năm sau, chúng ta có được một đội ngũ nhân lực đông đảo có chất lượng cao và cả nhiều nhân tài nữa, với cơ cấu hợp lý, thích hợp với tính chất và nội dung của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ những kinh nghiệm thành công của các nước thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp mới (NICs) và qua thực tế ở Việt Nam, việc thực hiện chiến lược phát triển toàn diện con người ở nước ta chính là xây dựng mô hình con người mới, đó là những con người: có lòng yêu nước nồng nàn; có đạo đức cách mạng trong sáng; có trí tuệ thông minh, chủ động và sáng tạo, thích nghi nhanh với mọi hoàn cảnh xã hội; có cơ thể cường tráng, có năng lực thể chất toàn diện đáp ứng mọi điều kiện làm việc và các hoạt động xã hội; có khả năng thẩm mỹ cao, biết phân biệt và hưởng thụ những cái đẹp của dân tộc và nhân loại; có tay nghề giỏi và thành thạo trong nghề nghiệp. 

Trong hoàn cảnh nước ta còn rất nhiều khó khăn, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với chúng ta rất lớn và cấp bách. Muốn đi tắt, đón đầu, muốn nhanh chóng đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, thì con đường tốt nhất để chúng ta có thể thực hiện là “phát triển giáo dục – phát triển toàn diện con người”. Trước mắt, chúng ta cần nhanh chóng thanh toán nạn đói nghèo; mở rộng thị trường lao động; tăng cường bảo vệ môi trường; phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và dân chủ hoá, phấn đấu xây dựng một xã hội học tập; thực hiện tốt công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân; tạo môi trường hoạt động xã hội lành mạnh; tạo lập và phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ, từng bước làm chủ tiến tới sáng tạo các công nghệ mới hiện đại... Có như vậy, chúng ta mới có môi trường thuận lợi để phát triển toàn diện con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. (còn tiếp)

*****

Chú thích:

(1) Viện Quản lý kinh tế trung ương: kinh tế tri thức, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2000, tr.35-36. 

(2) Xem John L. Petesren:Con đường đi đến năm 2015 - Hồ sơ của tương lai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. 

(3) Tài liệu của Trung tâm Thông tin Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội. 

(4) Ở nước ta có trường đại học có khoảng 10.000 sinh viên, 100 máy tính. Theo đồng chí Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo một thành phố mới (tháng 6-2000) cho biết trong các trường của thành phố này trung bình 2000 học sinh/1 máy. 

(5) Theo Giôn ÔNên, "Tiến bộ công nghệ và giáo dục",Tạp chí Điện tử xã hội và giá trị Mỹ, tháng 6-2000. 

(6) Xem GS. Đặng Hữu (chủ biên): Sđd. 

(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr. 331.

(8) Xem Phạm Minh Hạc (chủ biên):Xã hội hoá giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1995. 

(9) Xem Phạm Minh Hạc:Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. 

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ướng khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 28-29.

(11)Luật Giáo dục và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.8. 

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất về cơ cấu, số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
Ngày 4/12, tại Hà Nội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thảo luận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI.
Triển khai thực hiện các văn bản mới của Trung ương về về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Chiều 4/12 tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiêp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai Quy định 367-QĐ/TW và Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
Phổ biến những điểm mới các Luật, Nghị định
Sáng 4/12/2025, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo Phổ biến các văn bản tới các Hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và Tổ chức khoa học và công nghệ. Đây là hoạt động thường niên của Liên hiệp Hội Việt Nam nhằm cập nhật thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trong cùng hệ thống.
Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ trồng cây lâm nghiệp cảnh quan và Phát triển nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai
Ngày 01/12/2025, tại tỉnh Gia Lai, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai và tổ chức Face the Future (Hà Lan) tổ chức Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ Trồng cây Lâm nghiệp Cảnh quan và Phát triển Nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai (GLAD).
AI - Đạo đức và an toàn trong kỷ nguyên mới
Chiều 2/12 tại Hà Nội, mở đầu chuỗi tọa đàm “Khoa học vì cuộc sống” của Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2025 đã diễn ra buổi tọa đàm với chủ đề: “Trí tuệ nhân tạo (AI) vì nhân loại - Đạo đức và an toàn AI trong kỷ nguyên mới”. với thông điệp “Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng” tiếp tục truyền cảm hứng đổi mới vì con người.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chúc mừng 50 năm Quốc khánh nước CHDCND Lào
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và 105 năm ngày sinh Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản, thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bà Bùi Thị Minh Hoài - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã gửi thư chúc mừng.
Việt Nam - Lào khẳng định tầm nhìn chung, lợi ích chiến lược đan xen và định hướng đồng hành lâu dài
Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Thongloun Sisoulith và Phu nhân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm và Phu nhân dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam thăm cấp Nhà nước tới Lào và dự Lễ kỷ niệm 50 năm Quốc khánh Lào từ ngày 1 - 2/12/2025.
Viện Chính sách, Pháp luật và Quản lý tuyên truyền về phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội tới tuổi trẻ học đường
Với mục tiêu nâng cao nhận thức, giúp các em học sinh biết cách tự bảo vệ mình trước những cám dỗ, nguy cơ và hành vi vi phạm pháp luật, chương trình: “Tuyên truyền giáo dục về phòng chống ma túy, tác hại của thuốc lá và đồ chơi nguy hiểm có tính bạo lực.” được diễn ra thực sự đã mang lại những giá trị hữu ích.