Phan Bội Châu với dòng giáo dục yêu nước
Vậy muốn “hưng dân trí” và “chấn dân khí” thì không có con đường nào khác là phải “học”. Nhưng học ở đâu và học những gì? Tất nhiên không thể dựa vào trường học của Pháp và của triều đình phong kiến vì những trường đó chỉ “đào tạo ra những người làm nô lệ” mà thôi. Phan Bội Châu chủ trương tìm một con đường khác, đó là “xuất dương du học”. Với định hướng đó năm 1904, Phan Bội Châu thành lập “Duy Tân hội” và đến năm 1905 cụ bắt đầu đưa học sinh sang Nhật Bản. Đây là một việc làm vô cùng nguy hiểm và khó khăn. Một là phải vượt qua lưới của bọn mật thám Pháp lúc đó đang chăng dày đặc ở các điểm giao thông quan trọng với nước ngoài; hai là lòng yêu nước của nhân dân ta và đặc biệt là thanh niên thì thừa, nhưng “con em nhà giàu, một bước không dám ra khỏi cửa, mà những thiếu niên thanh hàn (nhà nghèo) không khác gì trói chân”.
Cho nên thời gian đầu, sau mấy tháng đi vận động cũng chỉ được có 3 người là Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điền người Thanh Chương (tỉnh Nghệ An) và Lê Khiết quê Thanh Hoá. Sau khi sang Nhật Bản, được sự giúp đỡ của Lương Khải Siêu, cụ đã viết bài “Khuyến quốc dân tư trợ du học văn”gửi về nước kêu gọi đồng bào giúp đỡ tiền của cho học sinh du học. Trong bài văn, ngoài việc phân tích những nguyên nhân làm dân ta ngu hèn ta phải tìm đường xuất dương du học để tự cứu, cụ đã nêu nguyên nhân vì sao du học sinh còn ít và còn thiếu. “Người giàu có thì sợ vạ nên không dám tiến lên, kẻ nghèo khổ thì thiếu của nên không thể đứng dậy”.Sau khi khẳng định sự giúp đỡ của đồng bào là có thể thực hiện được và nhất định kinh phí sẽ giải quyết được, cụ đề ra tiêu chuẩn của du học sinh: “Chọn trong đám con em trẻ tuổi nhưng ai thông minh, có chí, lại chịu được lao khổ thì tốt nhất, nếu không thì chọn những anh em tuy không thông minh lắm nhưng có chí hương bền bỉ cũng rất tốt, càng trẻ tuổi càng hay”. Còn trách nhiệm của các thiêu niên du học thì phải “có lòng gian khổ không sờn”, phải có thế “tiến thẳng không lùi”. Tất cả những ý nghĩ xằng bậy như rượu chè, cờ bạc, trai gái đĩ bợm đều hết sức ngăn ngừa. Tất cả những sự thực dụng đã đã nói trong chương trình nhà trường đều ra sức nghiên cứu. Chăm chú học tập sao cho khỏi phụ tấm lòng nhiệt thành giúp đỡ của đồng bào”.
Trong khi chờ đợi kinh phí từ trong nước gửi ra, một số học sinh nữa lại tới Nhật, nhưng vì không có tiền nên họ phải ở chung trong một gian buồng hẹp, ăn cơm gạo hẩm với muối trắng, phải chịu đựng cái rét ghê người ở đất Nhật, đúng là “áo cơm nhạt chống với cơ hàn” nhưng không một ai nản chí buồn bã. Họ đã tìm cách tự kiếm sống và tự học tiếng Nhật để chuẩn bị cho việc vào học sau này, đó là năm 1905.
Nhờ tinh thần yêu nước của nhân dân Ba Kỳ và nhiệt tình vận động của các đồng chí của Phan Bội Châu như Tăng Bạt Hổ, Tiểu La Nguyễn Thành… Năm 1907 số du học sinh sang Nhật đã có đến 100 người và sang 1908 thì lên đến 200 người, trong số này có những người chỉ mới 9, 10 tuổi như Trần Văn An, Trần Văn Thư, Hoàng Vĩ Hùng. Nhờ sự giúp đỡ của một số chính khách Nhật Bản như Phúc Đảo, Khuyễn Dương Nghị, tất cả học sinh đều được vào học trong Đông Á Đồng văn thư viện. Ở đây, buổi sáng anh em được học văn hoá gồm ngôn ngữ, văn học, sử, địa, toán, vật lý, hoá học, tu thân luân lý… tất cả đều dạy bằng tiếng Nhật, buổi chiều học quân sự. Việc giảng dạy trong lớp học do người Nhật thực hiện, còn ngoài lớp học do ta đảm nhiệm.
Để tăng cườn công tác quản lý học sinh, giữa năm 1907, Phan Bội Châu đã tổ chức Việt Nam Cống Hiến Hội do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm Hội trưởng, Phan Bội Châu làm Tổng lý kiêm Giám đốc. Tất cả học sinh đều sống bằng kinh phí do đồng bào trong nước gửi sang, ngoài ra không còn một thu nhập nào khác.
Từ cuối 1907 đến mùa thu 1908, tình hình rất khả quan, một số phụ huynh ở trong nước sang thăm cũng hết sức phấn khởi tin tưởng ở tiền đồ của dân tộc, đó là thời kỳ “đắc ý” nhất của Phan Bội Châu.
Như vậy nội dung của trường học trong phong trào Đông Du là gì? Như ta đã biết đây là giai doạn đầu, giai đoạn cụ mới được “tháo cũi sổ lồng”, như cụ đã nói khi thành lập Duy Tân Hội “Mục đích là cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một Chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác”. Cũng vậy, như khi mới được tiếp với “Thiên hạ đại thế luận” của Nguyễn Lộ Trạch thì một trong những vấn đề tâm đắc đối với cụ là phải “Chú ý đến vấn đề chính giáo, phải học tập gương tự cường của Nhật Bản phải mở mang công, nông, thương nghiệp và tăng cường việc học tập khoa học kỹ thuật phương Tây… để làm cho dân giàu nước mạnh”. Do đó, khi đưa du học sinh sang Nhật thì trong ý tưởng của Cụ cũng chỉ mới là:
Văn minh hấp lấy tinh thần
Tùy cơ rồi sẽ liệu dần về sau
Nghĩa là hãy học đã, học những sự thực dụng như cụ đã viết, học để mở mang đầu óc, thâu thái những tài khéo của nước ngoài, còn phải học thêm những gì nữa thì sau sẽ hay. Bởi vì nếu không có giáo dục đi trước một bước, đào tạo ra một lớp người có tri thức, lịch lãm như cụ nói, thì làm thế nào để hưng dân trí chấn dân khí được. Cho nên trong lúc cấp thời chưa thể có một nội dung cụ thể (như Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 chẳng hạn).
Tuy nhiên một điều chắc chắn là trong những giờ ngoại khoá hàng tuần do Công Hiến Hội chủ trì thì nội dung yêu nước đều được quán triệt trong các bài diễn thuyết. Rồi những “câu thơ dậy sóng” trong Hải ngoại huyết thư, những lời văn “bốc lửa” trong Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sử khảo rồi viễn cảnh huy hoàng của một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh trong tương lai sau khi duy tân thành công, trong Tân Việt Nam hẳn cũng đã kích thích tinh thần yêu nước của du học sinh lúc đó. Do đó, học sinh đã bền gan vững chí vượt qua bao nhiêu gian khổ thiếu thốn để học tập. Ngay cả sau khi trường học bị đóng cửa (1908), lưu học sinh buộc phải về nước thì một số thanh niên như Hoàng Thức Đường, Hoàng Trọng Mậu… đã ở lại tìm cách tự học và về nước mưu đồ đánh Pháp nhưng vì thời cơ chưa đến, cách tổ chức thiếu khoa học nên đều bị thất bại. Năm 1921 khi Phan Bội Châu thành lập Quang Phục hội, một số học sinh cũ của trường như Lâm Đức Mậu, Đặng Bỉnh Thành, Lâm Quang Trung, Đặng Xung Hồng… đã tham gia tổ chức này. Đó chính là kết quả của dòng giáo dục yêu nước mà Phan Bội Châu đã khởi xướng và chỉ đạo.
Đó là thời kỳ đầu của cụ. Đến khi cụ không còn trực tiếp đào tạo học sinh ở nước ngoài nữa, thì mục đích giáo dục là để làm người, làm cách mạng lật đổ chính phủ Pháp vẫn được cụ kiên trì theo đuổi. Năm 1924 khi biên soạn Truyện liệt sĩ Phạm Hồng Thái, cụ viết: “Phạm đã chán ghét loại trường học Chính phủ Pháp lập nên, mới biết rằng dưới xiềng xích của cường quyền thì giáo dục đều là bất lương, cho nên Phạm mới nói rằng: Ta không muốn sống còn thì thôi, chứ muốn sống còn thì phải cải tạo cơ quan giáo dục đó. Muốn cải tạo cơ quan giáo dục thì trước hết phải lật đổ Chính phủ Pháp”.
Trên đây là giai đoạn Phan Bội Châu đang là con người tự do, được tự do phát ngôn, tự do hành động theo chủ đích của mình, không một ai ngăn cấm. Cho đến khi cụ bị Pháp bắt và giam lỏng ở Huế từ năm 1925 trở đi, một con người đã từng in dấu chân khắp cõi Á Đông nay chỉ còn “trăng gió nhốt ba gian” thì mệnh đề “học để làm người chân chính, biết yêu nước, biết hợp quần” vẫn luôn luôn quán xuyến trong mục đích giáo dục của cụ. Khi được mời nói chuyện với học sinh trường Đồng Khánh, trước mặt bọn tay chân của Pháp, cụ vẫn khuyến cáo học sinh: Nếu những người đi học chỉ để mong làm quan lại, viên chức Nhà nước lương cao bổng hậu, ăn cơm Tây, ở nhà Tây, đi xe Tây thì đó chỉ là một hạng “nô lệ ưu đẳng”, “Cái kết quả học đường sở đắc có thế thôi”. Cụ cho rằng cái mục đích của những người đi học lúc đó (1926) vẫn chịu ảnh hưởng rất nặng của cái học Nho giáo xưa: học để làm quan để được vinh thê, ấm tử. “Chỉ biết cân đai ái mũ làm sự nghiệp tày trời, lấy thủ gà đầu heo làm thánh thần rất mực”, cái học ấy đã làm cho “xã hội hôn ám, thành ra cái thảm hoạ, nhà không nhà, nước không nước”. Còn cái học mới của người Pháp tuy có khác xưa, nhưng “xét đến tinh thần cốt tuỷ có khác gì vượn học tiếng người, đạo đức cũ đã sạch sanh mà văn hoá lại chẳng có gì dây vướng ở học đường”.
Vậy thì học sinh lúc này cần phải cải tạo những gì để thành người có ích cho xã hội? Cụ cho rằng “Trước hết phải bồi dưỡng cái giáo dục thuần khiết như lòng ái quốc, lòng hợp quần, lòng công ích, tất cả cần cho thật thà hết sức, không một tí gì dối trá…”. Những lời giáo huấn này trong sách giáo khoa của các trường Pháp từ sơ học lên cao đẳng có lẽ không bao giờ nói đến.
Trong thời gian này ngoài công việc trước tác, cụ còn là một ông thầy thực thụ. Nhà tuy hẹp nhưng cụ đã tổ chức được 2 lớp học, lớp trên và lớp dưới. Lớp trên cho thanh niên đã biết chữ Hán và Quốc ngữ, lớp dưới là các em nhỏ mới học vỡ lòng. Mỗi buổi sáng, cụ trực tiếp dạy chữ Hán cho cả hai lớp, lớp trên trước, lớp dưới sau. Buổi chiều đi dạo tập thể dục thể thao ngoài vườn, ở đây có đủ xà đơn xà kép và một số quả tạ. (Chúng ta nên nhớ rằng Cụ tuy xuất thân Nho học nhưng đã kịch liệt phê phán những anh dồ “dài lưng tốn vải” và hết sức đề cao “một tinh thần tráng kiện trong một thân thế khoẻ mạnh”). Lớp trên ngoài văn thơ, câu đối cụ còn dạy môn quốc sử trong cuốn Việt Nam quốc sử khảo. Cụ đặc biệt chú ý đến tình hình đất nước thời bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Cụ thường đặt những câu hỏi khêu gợi “tinh thần yêu nước”, “tinh thần dân chủ”, “tinh thần công lý”… cụ còn dạy cho lớp dưới bài hát mở đầu bằng hai câu thơ của cụ:
“Nay ta hát một thiên ái quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta…”
Hoạt động giáo dục của Phan Bội Châu thật phong phú và đa dạng hoặc khi đích thân đào tạo lưu học sinh Việt Nam ở Nhật Bản, hoặc khi in dấu chân khắp các nước Trung Quốc, Thái Lan… và ngay cả khi đã lâm vào hoàn cảnh “cá chậu chim lồng” cụ vẫn bằng thơ văn, bằng diễn thuyết, bằng trực tiếp giảng dạy và cả những lúc tâm sự với những người đồng tuế hoặc thanh niên, cụ luôn luôn như muốn níu kéo thời gian dạy đua với tuổi già để truyền thụ tư tưởng yêu nước tha thiết của mình cho lớp người đi sau. Những người trẻ tuổi đồng hương Nghệ Tĩnh thường lui tới nhà Cụ như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Đệ, Nguyễn Đức Vân và nhiều nữa, đã trở thành những chính khách, những cán bộ cách mạng, những nhà văn nhà báo có uy tín. Nhiều thanh niên ở khắp các tỉnh trong toàn quốc như Nguyễn Quí Hương, Trịnh Xuân An, Lâm Hồng Phấn, Lê Thị Ngọc Sương… cũng đã viết trong hồi ký nhiều trang tỏ lòng kính trọng cụ. Với cụ thì mặc dầu học ở nhà trường của Pháp, thanh niên ta vẫn rèn luyện để trở thành những nhà yêu nước, những nhà cách mạng chân chính. Cụ đã thành thần tượng một thời của lớp người đang đi tìm lý tưởng. Đặc biệt, một số lãnh tụ của Đảng như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng là nhưng người đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của Phan Bội Châu, đã hăng hái dấn thân vào con đường cứu nước đầy chông gai nhưng tất thắng. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nhớ lại: “Lúc còn thanh niên, mỗi lần đọc thơ Phan Bội Châu, tôi thấy trong lòng có cái gì náo nức, như thúc giục lòng mình xông lên làm một điều gì cho Tổ quốc. Đó thực sự là những bài thơ tác giả viết ra từ bầu nhiệt huyết, bằng tất cả óc tim”.
Phan Bội Châu xứng đáng là người thầy lớn, là người mở đường cho dòng giáo dục yêu nước của dân tộc.