Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 04/08/2010 15:59 (GMT+7)

Ô nhiễm nước ở đồng bằng sông Cửu Long và giải pháp hạn chế

Thực trạng

Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm phần đất thuộc 12 tỉnh: Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang và thành phố Cần Thơ. Là vùng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của Việt Nam (đóng góp hơn 50% sản lượng lương thực, 65% sản lượng thủy sản cả nước). Diện tích vùng ĐBSCL khoảng 3,9 triệu ha, với gần 17 triệu dân. Tuy nhiên, hàng năm một diện tích rộng hơn 2 triệu ha ở phía Bắc ĐBSCL bị ngập do lũ sông Mê Kông, gần 2 triệu ha ven biển bị nhiễm phèn, vùng sâu, vùng xa thiếu nước ngọt, cơ sở hạ tầng của vùng còn yếu kém…

ĐBSCL có nguồn nước mặt khá phong phú. Nước sông Tiền và sông Hậu có chất lượng thay đổi theo mùa rõ rệt. Mùa khô, hàm lượng các chất hòa tan cao, mùa lũ hàm lượng này thấp hơn, nhưng bù lại nước có hàm lượng nước trong vùng ĐBSCL khá phức tạp, chịu sự chi phối từ điều kiện tự nhiên, chế độ khí hậu, thủy văn và hoạt động phát triển kinh tế xã hội của con người. Do đặc điểm tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế xã hội, tập quán sinh hoạt… nên chất lượng nước ở ĐBSCL thay đổi khá mạnh theo cả không gian và thời gian. Trong thời gian gần đây, vấn đề nổi lên rất đáng quan tâm là sự ô nhiễm nguồn nước.

Nước chua là vấn đề rất đáng quan tâm ở ĐBSCL, gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước và kéo theo tác động xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Nước chua xảy ra chủ yếu ở các vùng đất phèn hoặc lan truyền từ nơi khác đến. Thời gian bị chua 3-6 tháng: đầu mùa mưa (V-VII) và giai đoạn XII-I. Hiện nay, đất chua chủ yếu chỉ còn tập trung ở vùng Tứ giác Long Xuyên (TGLX), Đồng Tháp Mười (ĐTM) và U Minh.

Theo tính toán ở vùng phèn trung bình, hàng năm trên 1ha, lũ và mưa có thể rửa trôi 2,3 kg Fe +, 11,9 kg Al 3+, 227 kg SO 42-. Với mức đó để giải hóa hoàn toàn tầng đất phèn dày 1m cần 1000-2000 năm. Người ta cũng ước tính vùng ngập lũ ĐBSCL vào những năm nước lớn có thể rửa trôi 200.000 tấn sản phẩm phèn.

Việc cải tạo đất phèn ở ĐTM và TGLX chỉ ra rằng đất phèn có thể trở thành đất nông nghiệp ổn định nếu được cấp nước ngọt đầy đủ để thau chua và tưới. Ví dụ rõ nhất là sự thay đổi chất lượng đất và nước vùng Tứ giác Hà Tiên (thuộc TGLX), sau khi nhà nước thực hiện dựa án thoát lũ ra biển Tây theo Quyết định 99/TTg.

Sau nhiều năm cải tạo, đến nay diện tích đất phèn còn khoảng 1,6 triệu ha (41%). Trong đó, khoảng 886.000 ha đất thuần phèn và 658.000 ha đất phèn mặn. Đất phèn tiềm tàng có diện tích 613.000 ha, phân bố trên những vùng tiêu nước khá thuận lợi nên thích hợp với lúa nước. Vì thế, 72% diện tích đất phèn tiềm tàng được sử dụng cho nông nghiệp, 5% cho rừng và một phần là đất hoang. Đất phèn hoạt động tập trung chủ yếu ở vùng có khả năng tiêu nước kém. Tuy vậy, cũng có đến 62% diện tích được sử dụng cho nông nghiệp, 11% cho rừng và phần còn lại là đất hoang. Đất phèn mặn tập trung ven biển, với 46% diện tích nông nghiệp, 17% rừng, 10% nuôi tôm và phần còn lại chưa được sử dụng. Đây thực sự là nguồn ô nhiễm chua phèn đáng lưu ý đối với nước mặt ĐBSCL.

Ngoài sự nhiễm phèn, xâm nhập mặn cũng là một vấn đề cần được lưu ý ở ĐBSCL. Với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, ăn thông ra biển mặn dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa. Trong mùa mưa nhờ có lượng nước ngọt phong phú (do mưa và dòng Mê kông mang đến) nên mặn bị đẩy lùi ra gần biển, nhưng vào mùa khô khi lưu lượng nước ngọt trên sông giảm, mặn lấn sâu vào nội đồng, gây ra những ảnh hưởng đáng kể. Sự xâm nhập mặn ở ĐBSCL rất phức tạp, mỗi vùng có đặc điểm riêng: Trên dòng chính Mêkông phụ thuộc vào lưu lượng thượng lưu chảy về.

Trên hệ thống sông Vàm Cỏ phụ thuộc sự bổ sung lưu lượng từ các nguồn khác (vào sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông) và việc lấy nước của các khu vực ven sông. Vùng Tứ giác Long Xuyên chịu ảnh hưởng lớn vào khả năng vận chuyển nước ngọt của hệ thống kênh nối từ sông Hậu sang biển Tây, ở vùng bán đảo Cà Mau (BĐCM) phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa nội vùng và sự tiếp ngọt từ kênh Quản Lô-phụng Hiệp.

ĐBSCL có khoảng 790.000 ha đất mặn (20%) trong tổng số gần 2 triệu ha tự nhiên bị ảnh hưởng mặn, phân bố chủ yếu dọc bờ biển Đông và vùng BĐCM. Trong đó, đất bị mặn dưới 2 tháng khoảng 100.000 ha (đều đã được sử dụng cho nông nghiệp), đất mặn từ 2-4 tháng 520.000 ha (88% sử dụng cho nông nghiệp, 9% cho rừng và 3% đất hoang), và đất mặn quanh năm chiếm khoảng 170.000 ha (34% cho rừng, 25% nuôi tôm và 36% đất hoang). Trước đây, khi công trình thủy lợi chưa phát triển, diện tích bị ảnh hưởng mặn 1g/l trở lên khoảng 2,1 triệu ha. Nếu tính với độ mặn 0,4g/l (tiêu chuẩn cho phép của nước sinh hoạt) thì phạm vi ảnh hưởng mặn còn rộng hơn. Đến nay do công trình thủy lợi phát triển nhiều vùng ven biển được ngọt hóa nên diện tích bị ảnh 1,5 triệu ha. Tuy nhiên, ranh giới hưởng mặn giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 1,3 mặn trên sông chính, sông Vàm Cỏ Tây và các kênh nối thông ra biển lại có xu thế gia tăng.

Những năm qua, được sự đầu tư của nhà nước việc xây dựng các dự án thủy lợi đưa nước ngọt ra các vùng đất ven biển để cải tạo đất mặn, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp và cải thiện điều kiện sống cho nhân dân đã chứng tỏ là một trong những giải pháp quan trọng ở ĐBSCL, tạo ra những chuyển biến đáng kể về chất lượng nước. Nổi bật về hiệu quả như các dự án tiếp nước Quản Lộ-Phụng Hiệp, dự án ngọt hóa Gò Công, dự án Ba Lai… Tuy vậy, trong thực tế sự xâm nhập mặn vẫn diễn ra phức tạp và là một trong những nguồn ô nhiễm khó khống chế, mà hậu quả gây ra về kinh tế - xã hội khó đánh giá hết, nhất là ảnh hưởng tới chất lượng đất và qua đó tới chất lượng nước. Như một ảnh hưởng tất yếu của sự phát triển, những năm gần đây hiện tượng ô nhiễm môi trường nước đang gia tăng một cách báo động. Sở dĩ có điều đó là do sự đa dạng về dân cư mà tính chất nguồn thải, tập quán sinh hoạt cũng như thói quen hoạt động sản xuất và cả tình hình phát triển kinh tế rất phức tạp. Phần khác, nhiều khu công nghiệp đã được hình thành, đưa vào sản xuất, nhiều nhà máy, xí nghiệp đi vào hoạt động làm cho chất lượng môi trường nước trong vùng ngày càng trở nên đáng quan ngại.

Theo thống kê, tổng số chất thải hàng năm của khu vực khoảng 3,7 triệu tấn, với 90% số đó chưa được thu gom và xử lý, mà trực tiếp hoặc gián tiếp đổ xuống sông rạch. Trong đó: Rác thải sinh hoạt chiếm khoảng 2,3 triệu tấn (kể cả phân súc vật và gia cầm); rác công nghiệp và dịch vụ khoảng 1,4 triệu tấn (kể cả chế biến, giết mổ…, đáng ngại nhất là khoảng 40.000 tấn rác thải bệnh viện).

Một điều đáng lưu ý là chăn nuôi ở vùng ĐBSCL phát triển rất mạnh, trong vùng có khoảng 2,6 triệu đầu lợn, 260.000 trâu bò (cả bò sữa), gần 40 triệu con gia cầm, đặc biệt là vịt (thủy cầm - là tác nhân lây truyền H5N1 trong giai đoạn vừa qua). Số chất thải rắn do chăn nuôi đưa thẳng vào sông rạch khoảng 22.500 tấn/ngày đêm, chất thải lỏng (kể cả nước rửa chuồng trại) chừng 40.000 m3/ngày đêm. Ước tính tải lượng chất thải gây ra do súc vật và gia cầm cho toàn vùng ĐBSCL: BOD5 432,9 tấn/năm. COD 1.6438 tấn/ngày đêm tương ứng 600.000 tấn/năm. Tổng số N 86,8 tấn/ngày đêm tương ứng 31.700 tấn/năm. Tổng số P 40,5 tấn/ngày/đêm tương ứng 14.800 tấn/năm. Ngoài ra, nguồn gây ô nhiễm trực tiếp, đáng kể là các bè cá nuôi trên sông. Theo thống kê chưa đầy đủ thì lượng thải do các bè cá gây ra khoảng trên 3 triệu tấn/năm. Tập quán sinh hoạt nhất là việc thải trực tiếp các chất thải (từ người, gia súc và gia cầm) vào nguồn nước của cư dân trong vùng làm cho nước mặt ở ĐBSCL có độ nhiễm vi sinh cao, nồng độ Coliform trung bình khoảng 300.000 - 1.500.000 con/100ml. Thêm vào đó thói quen lạm dụng phân bón, nhất là phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, đã gây ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng nước mặt. Theo kết quả của một số nghiên cứu, ô nhiễm thuốc trừ sâu ở ĐBSCL hiện chưa đáng lo ngại, song cục bộ cũng đã có những nơi ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, để giải quyết vấn đề nhằm cải thiện, tiến tới đảm bảo chất lượng nước trong vùng cần kết hợp nhiều giải pháp khác nhau.

Một số giải pháp

Việc tìm cách hạn chế ô nhiễm nguồn nước cho ĐBSCL là rất cấp thiết và đòi hỏi phải triển khai càng sớm càng tốt. Ngoài tăng cường công tác giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng, hướng dẫn và trợ cấp cho nhân dân thực hiện bảo vệ chất lượng môi trường, còn phải đưa ra các quy định chế tài để xử lý những đối tượng cố tình gây ô nhiễm, nhất là các cơ sở sản xuất cố tình không chịu xử lý nước thải trước khi đổ ra sông, rạch. Mặt khác, phải có quy hoạch một cách đồng bộ, hoàn chỉnh trong khâu bố trí, xây dựng các khu công nghiệp, sao cho đảm bảo không gây ra những hậu quả với môi trường. Muốn thế phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường các dự án, tuân thủ các yêu cầu của Luật Bảo vệ tài nguyên nước, hướng dẫn nhân dân tích cực tham gia bảo vệ giữ gìn tài nguyên trong đó đặc biệt lưu ý đến tài nguyên nước. Đồng thời, trong chiến lược tới 2020 cần có sự quy hoạch, quản lý tổng hợp các lưu vực sông lớn để phân trách nhiệm, tạo cơ sở phối hợp và xác lập những nguyên tắc chia sẻ nước giữa các đối tượng sử dụng khác nhau, trong đó ưu tiên hàng đầu cho cấp nước theo nhu cầu sinh hoạt.

Ngoài các giải pháp trên, trong thực tế cho thấy vai trò của công tác thủy lợi có ảnh hưởng rất to lớn đến chất lượng nước của vùng. Vì thế cần đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và phát huy hiệu quả các hệ thống và công trình thủy lợi đã có, làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch, thực hiện các dự án trong tương lai. Muốn thế cần chú trọng chất lượng của công tác quy hoạch thủy lợi cho toàn vùng ĐBSCL và các tiểu vùng, đảm bảo tính đồng bộ, hỗ trợ nhau trong khai thác, sử dụng và bảo vệ nước - tài nguyên quý, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội vùng ĐBSCL.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.