Những vị đầu bếp bất tử trong vụ "Hà Thành đầu độc"
Lịch sử tiễu trừ giặc Pháp của dân tộc ta, có thể bớt đổ máu nếu như vụ đầu độc binh lính Pháp và nổ súng hiệu cho nghĩa quân Yên Thế ập vào, giải phóng Hà Nội năm 1908 thành công. Nhưng, ngôi mộ tạm mang tên "Hà thành đầu độc" kia từng được đối xử ra sao?
Bức ảnh "Bêu đầu" được chụp ở Hà Nội từ 100 năm trước
Trong cuốn lịch sử "Từ Đà Nẵng đến Điện Biên Phủ" ghi rõ: ngày 27/6/1908, anh em bồi bếp và binh lính người Việt thuộc Trung đội Công nhân pháo thủ Hà Nội đã tổ chức đầu độc binh lính Pháp đóng trong thành để phối hợp với nghĩa quân Yên Thế được bố trí ở bên ngoài nhằm giải phóng thành Hà Nội.
Trong bữa ăn tối định mệnh ấy, toàn bộ 250 binh lính Pháp thuộc Trung đoàn pháo binh và Trung đoàn bộ binh đóng trong Thành bị anh em bồi bếp và binh lính người Việt dùng cà độc dược đầu độc. Song, sự việc bị bại lộ do một trong những người biết việc đi nhà thờ, “xưng tội” với cha đạo (có tài liệu cho rằng, có người đã làm phản), khi anh em chưa kịp bắn súng hiệu. Thực dân Pháp đã tương kế tựu kế, tước hết vũ khí, tống giam nhiều chí sĩ yêu nước.
Một số chí sĩ trong vụ này bị xử chém, bêu đầu tại nhiều địa điểm ở thủ đô. Tuy cuộc mưu chiếm lại thành Hà Nội không thành, nhưng vụ “Hà thành đầu độc” đã làm chấn động dư luận.
Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, tức Nguyễn Trí Bình, đội Cốc tức Dương Bê... Ngày hôm sau, Pháp đem ra xử và khép tội (chém đầu) đối với 13 (có sách nói 12) binh lính và bồi bếp người Việt.
Buồn thay, bánh xe lịch sử vệ quốc của dân tộc đã không chiều lòng 13 vị đầu bếp và binh sĩ trượng phu kia. Sau khi “thoát chết trong gang tấc”, giặc Pháp đã điên cuồng dốc tới 15.000 quân lên núi rừng Yên Thế hòng vây bắt bằng được "hùm xám" Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) và nghĩa binh của ông. Nhưng phải mất tới 4 năm hao binh tổn tướng, bị “giời đày” giữa rừng thiêng nước độc, quân Pháp mới khống chế được "Hùm xám" Yên Thế (Đề Thám).
Cuộc khởi nghĩa kết thúc sau 30 năm làm cho kẻ thù bạt vía kinh hồn.
Trong cảm nhận của cá nhân tôi (người viết bài này), một trong những bức ảnh ám ảnh nhất, bi tráng nhất và cũng mang tính báo chí nhất của lịch sử vệ quốc của chúng ta, chính là bức ảnh chụp thủ cấp các vị đầu bếp bị hành quyết sau khi mưu lớn bất thành.
Từ lâu lắm, tôi đã cắt và giữ bức ảnh đó, ảnh chụp ba đầu đặt trong ba cái rọ tre đan loằng ngoằng quặn thớ. Quặn đau tê tái! Thủ cấp được bêu trên vài “cửa ô”, tuyến phố đông đúc nhất của Hà Nội lúc bấy giờ.
Hai thủ cấp nhắm mắt, đầy máu me, một thủ cấp mở mắt, thanh thản, không hề vương sợ hãi. Dưới mỗi cái rọ bêu đầu là những tấm giấy bản chi chít chữ Nho, chắc là giặc nó kể tội người yêu nước Việt Nam rằng họ dám “làm loạn”...
Không biết có giải thưởng báo chí nào đã trao cho bức ảnh thảm thương và đầy tráng chí nam nhi “thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời” đó chưa?
Lời chú thích bức ảnh, ghi như sau: “Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Dương Bê) cầm đầu vụ Hà thành đầu độc, bị hành quyết ngày 8/7/1908 và người Pháp đã bêu đầu các ông ở Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy và Chợ Mơ” (trang 176, cuốn “Từ Đà Nẵng đến Điện Biên Phủ”, NXB Quân đội, năm 2004). Bên cạnh, là bức ảnh chính các vị đầu bếp trong vụ “Hà thành đầu độc” khi bị giam trong Hỏa Lò, Hà Nội, gông cùm lạnh lẽo giết chóc, hơn chục vị ngồi bình thản nhìn vào... người chụp ảnh. Đôi mắt của các vị nhìn vào hàng triệu triệu lượt người xem ảnh suốt 100 năm qua và mãi mãi sau này.
Chỉ một vài ngày sau, họ đều lần lượt bị hành quyết, treo thủ cấp giữa đô thành; nhưng: ánh mắt của họ còn quá trẻ, ai cũng tuấn tú, ai cũng có cái an nhiên tự tại của người đã đắc đạo.
Với người yêu nước Việt Nam , họ là những “Kinh Kha qua sông Dịch” hành thích bạo chúa Tần, kiểu: gió hiu hiu sông Dịch lạnh ghê/ tráng sĩ ra đi không trở về. Với bà con lúc ấy và mãi mãi sau này, họ đã là những người yêu nước bất tử.
Những người ngã xuống không thể ngờ được rằng: gần một thế kỷ sau, con cháu máu mủ của các vị đã vất vả bao năm tìm kiếm phần mộ họ.
Không ngoại trừ cả việc mang đậm màu sắc hoang đường, như vợ chồng ông Khải (con cháu cụ bếp Hiên) gặp những giấc mơ lạ về những cụ ông không đầu về báo mộng. Khi tìm thấy nơi mai táng rồi, việc vinh danh các tử sĩ, chăm chút phần mộ và dựng mấy dòng chữ kỷ niệm các anh hùng vệ quốc ấy lại vô cùng lận đận.
Đến năm 2008 này, nơi tưởng niệm hơn 10 vị đầu bếp độc nhất vô nhị, các bậc nghĩa sĩ quên mình cho non sông gấm vóc nọ, vẫn rất là buồn bã. Muốn thắp nhang cho họ, chúng tôi phải vạch cây cối, đi qua nhà người ta rồi đến cái xó tường nhếch nhác ở vùng Nghĩa Đô (Hà Nội), nơi từng là trại nuôi dê, thấp hơn mặt đường những 50cm, ở đó có duy nhất một ngôi mộ mới được ông Khải quy tập vội vã cùng vài dòng chữ nhỏ, có phần hơi tối nghĩa: “Nơi yên nghỉ của 9 nghĩa sĩ yêu nước trong vụ Hà thành đầu độc thực dân Pháp ngày 27 tháng 6 năm 1908 (13 tháng 9 Mậu Thân)".
Nhiều sử gia đã thống thiết kêu cứu cho di tích “Hà thành đầu độc”, nhưng sự việc vẫn đâu đóng đấy. Không lẽ, chúng ta đã tri ân những người anh hùng vệ quốc của mình một cách như thế ư? Chúng ta đã bước vào năm 2008, thế là tròn trịa một thế kỷ từ ngày những người đầu bếp ngã xuống hy vọng góp phần cứu muôn dân khỏi cái họa “sơn hà nguy biến”, nhân dịp này, chúng ta sẽ làm gì...?
Nguồn: tintuconline.vn (19/03/08)








