Những mưu kế thần kỳ trong chiến dịch giải phóng miền Nam
Trong đại thắng mùa xuân năm 1975, chúng ta đã thi hành những mưu kế cao nhất, do đó đã giành được kỳ tích sánh ngang với những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… của cha ông ta.
Khởi đầu chiến dịch giải phóng miền Nam , ngày 6/1/1975, quân ta giải phóng tỉnh Phước Long (miền Đông Nam Bộ) để thăm dò phản ứng của Mỹ. Mỹ - Nguỵ tuy lớn tiếng đe doạ nhưng đã không dám tổ chức phản công “tái chiếm Phước Long”. Trận Phước Long là một trận trinh sát chiến lược của ta. Qua trận này ta nhận định: Nếu ta đánh mạnh, Mỹ sẽ không dám đem quân cứu Nguỵ. Ta bố trí quân đoàn 2 ở Huế, quân đoàn 4 ở Biên Hoà, hai “quả đấm” xiết chặt hai vùng Nam, Bắc chiến tuyến. Ở phía bắc sông Bến Hải ta còn một Quân đoàn nữa. Địch rất sợ ta đánh Huế nên tập trung lực lượng lớn để bảo vệ Huế, Sư đoàn dù của địch phải chốt ở Huế, Đà Nẵng để đối phó với Quân đoàn 2 của ta. Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ thiện chiến của Nguỵ phải để ở Sài Gòn vì sợ ta tập kích Sài Gòn bất thình lình. Lúc này ở Tây Nguyên, địch không có lực lượng dự bị chiến lược, chỉ có lực lượng tại chỗ do đó yếu nhất.
“Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” là lời dạy của binh pháp. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở màn, mà Buôn Ma Thuột là trận đánh then chốt. Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng, từ lâu thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đánh giá: “Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương”. Ta nhận định: đánh Tây Nguyên, bọn Nguỵ sẽ không thể đưa quân dự bị đi cứu vì còn phải lo đối phó với hai “quả đấm kia”.
Quân ta ở Tây Nguyên có hai sư đoàn là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Ta bí mật tăng cường cho Tây Nguyên hai sư đoàn nữa, đó là Sư đoàn 968 từ hạ Lào vào Tây Nguyên và Sư đoàn 316 hành quân từ Nghệ An vào. Bộ tổng tư lệnh còn tăng cường cho chiến dịch Tây Nguyên Trung đoàn 95B và ba trung đoàn công binh, một tiểu đoàn cầu phà, một tiểu đoàn vận tải, một đại đội thông tin, một đại đội trinh sát… Tây Nguyên đột ngột trở thành một “quả đấm” nặng ký của ta mà bọn địch không hay biết.
Từ lâu bọn Mỹ Nguỵ ở Tây Nguyên có kinh nghiệm rằng: hễ Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 của ta di chuyển vào hướng nào thì nơi đó sẽ xảy ra đánh lớn. Tương kế tựu kế, ta bí mật thế chỗ Sư đoàn 10 và 320 bằng Sư đoàn 968. Khi các sư đoàn này chuyển quân được lệnh để lại toàn bộ mạng thông tin vô tuyến điện và nhân viên báo vụ. Các đài vô tuyến vẫn duy trì phát sóng đúng giờ tung các báo cáo giả đánh lừa địch, (liên lạc giữa các đơn vị đánh Buôn Ma Thuột ta dùng đường dây hữu tuyến). Tình báo địch khi theo dõi các tín hiệu phát ra vẫn đinh ninh là các sư đoàn của ta vẫn ở vị trí cũ.
Để giấu việc tập trung quân về Buôn Ma Thuột, Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên điều một số đơn vị và rất nhiều dân công hoả tuyến lên phía Kontum – Plâycu rậm rịch mở đường đào hào, chuẩn bị trận địa, có vẻ như sắp đánh lớn ở đây. Bị các hoạt động nghi binh của ta đánh lừa, tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2 Nguỵ khi bàn kế hoạch đối phó với ta đã nhận định: Nếu đánh lớn, Cộng sản sẽ lấy Kontum, Plâycu làm điểm quyết chiến. Nơi thứ hai có thể bị tấn công là Quảng Đức vì Cộng sản đã chiếm được Phước Long nên cần đánh Quảng Đức để thông đường vào Nam Bộ.
Khi các cánh quân đã triển khai hướng chính an toàn, ngày 1/3/1975, Bộ tư lệnh chiến dịch cho đánh nghi binh, tấn công các vị trí ngoại vi thị xã Plâycu. Trong những trận này ta dùng cả pháo lớn. Bọn địch càng khẳng định ta sẽ đánh Kontum, Plâycu nên tướng Phú vội vã ra lệnh cho Trung đoàn 45 đang lùng sục quân ta ở xung quanh Buôn Ma Thuột về giữ Plâycu. Vậy là ta không những lừa địch mà còn điều địch vào thế trận của ta. Quân ta lần lượt cắt các đường tiếp tế lên Tây Nguyên là đường 19 từ Quy Nhơn lên Plâycu, đường 21 từ Nha Trang đi Buôn Ma Thuột, đường 14 từ Plâycu đi Buôn Ma Thuột.
Chuẩn bị xong xuôi, 2 giờ sáng ngày 10/3/1975, quân ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột. Các trận địa pháo của ta bắn dữ dội vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 Nguỵ và khu dinh tỉnh trưởng Đắk Lắk. Quá bất ngờ, bọn địch nhanh chóng tan rã. Đến 11 giờ hôm sau, quân ta làm chủ được những nơi này. Tỉnh trưởng Đắk Lắk là đại tá Nguyễn Trọng Luật cùng Sư phó Sư đoàn 23 - đại tá Vũ Thế Quang đã bị quân ta bắt sống. Địch từ Plâycu tổ chức phản công nhưng các con đường đã bị ta cắt nên chúng chỉ có thể tăng viện bằng đường hàng không. Đi bằng máy bay sẽ không mang được pháo lớn và xe tăng. Đây lại là một cách điều địch vào thế trận của ta.
Quân tiếp viện vừa đổ xuống, lập tức chúng bị Sư đoàn 10 của ta bao vây đánh dữ dội. Chuẩn tướng Lê Trung Tường chỉ huy quân phản kích bị quân ta bắn rơi máy bay. Tường bị thương, được đám tàn quân dìu chạy thoát. Buôn Ma Thuột hoàn toàn giải phóng.
Thất thủ Buôn Ma Thuột, Tổng thống Nguỵ là Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút bỏ Tây Nguyên về giữ đồng bằng ven biển miền Trung. Sớm nhận định là địch sẽ rút khỏi Tây Nguyên nên ngay từ khi chiến sự ở Buôn Ma Thuột còn ác liệt, Quân uỷ Trung ương đã điện cho Bộ tư lệnh chiến dịch chuẩn bị triển khai truy kích quân địch. Sư đoàn 320 được lệnh nhanh chóng tiêu diệt tàn quân địch không cho chúng thoát chạy về miền Trung. Quân ta đã khẩn trương hành quân và đánh địch trên đường số 7 mà bọn địch dùng để rút chạy. Đến ngày mồng 1 tháng 4, ba thứ quân của Phú Yên (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) đã đánh tan đạo quân rút chạy của địch, số thoát rất ít còn tinh thần thì hoang mang cực độ.
Trên đà thắng lợi, Quân đoàn của ta và lực lượng vũ trang ba thứ quân của Trị Thiên và Quân khu 5 mở cuộc tấn công mạnh vào bọn địch ở Huế, Đà Nẵng. Quân ta từ Tây Nguyên cùng với bộ đội địa phương đánh xuống các tỉnh miền nam Trung bộ như Phú Yên, Nha Trang… Quân Nguỵ ở Huế, Đà Nẵng đã rơi vào thế hoàn toàn tuyệt vọng. Trước mặt và sau lưng đều có quân ta, chúng nhanh chóng tan rã, phải rút chạy bằng đường biển, ta dùng pháo nòng dài bắn chìm khá nhiều tàu địch. Tướng nguỵ Ngô Quang Trưởng lớn tiếng kêu gọi “tử thủ Huế, Đà Nẵng” (trả lời phỏng vấn báo chí, Ngô Quang Trưởng tuyên bố: “Tôi sẽ chiến đấu và chết trên đường phố Huế, Cộng sản muốn chiếm được Huế phải bước qua xác tôi”) nhưng cũng phải vội vàng chạy trốn về Sài Gòn. Huế, Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng. Như vậy, chỉ trong vòng 3 tuần kể từ khi ta đánh Buôn Mê Thuột, một nửa lãnh thổ miền Nam đã thuộc về quân giải phóng.
Binh pháp có viết “quân thua như núi đổ”. Thất bại dồn dập và quá nhanh đã khiến bọn địch ở Sài Gòn hoang mang cực điểm, tướng tá và binh sĩ Nguỵ không còn ý chí chiến đấu, tranh nhau chạy ra nước ngoài. Bộ Chính trị và Quân uỷ trung ương chớp thời cơ đã thống nhất đất nước sớm trước kế hoạch đã đặt ra một năm (trước kia dự kiến giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976). Có thể nói, trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn quân đội ta đã đạt đến đỉnh cao của khoa học quân sự.
Hoàng Minh Thảo*
* Thượng tướng, giáo sư - Nguyên tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên 1975.
Nguồn: Khoa học & Tổ quốc,30/4/2005







