Những chứng cứ khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
Dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), thương gia Nhật Bản Araki Sotaro lấy một quận chúa hoàng tộc và trở thành cháu của chúa Sãi, mang tên Việt là Nguyễn Đại Lượng, tự là Hiền Hùng, đã giúp chúa Sãi đưa đội thủy binh của phủ Chúa ra Bãi Cát Vàng khai thác hải sản, thu vớt hàng hóa súng đạn của các tàu thuyền phương Tây bị đắm tại đây.
Về sau, các nhà nho nước ta đã dùng tên chữ Hán để gọi Bãi Cát Vàng là Hoàng Sa Chử (Cồn Cát Vàng) hay Đại Trường Sa, Vạn Lý Hoàng Sa hay Vạn Lý Trường Sa. Còn Trung Quốc thì gọi Hoàng Sa là Thiên Lý Thạch Đường và Trường Sa là Vạn Lý Thạch Đường.
Vào cuối thế kỷ XVIII, nhờ sự phát triển của khoa học và hàng hải quốc tế, năm 1787 – 1788, nhờ đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mà người ta mới biết Bãi Cát Vàng gồm hai quần đảo cách nhau hơn 300 km: Quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc mà người phương Tây gọi là Paracel, Paracels hay Pracels và Quần đảo Trường Sa ở phía nam mà người phương Tây gọi là Sparly hay Spateley.
Còn thuật ngữ Sisha (Tây Sa) để chỉ Hoàng Sa và Nansha (Nam Sa) để chỉ Trường Sa là những địa danh mà Trung Quốc mới nêu ra trong thập kỷ 50 của thế kỷ XX nhằm phục vụ cho mưu đồ bành trướng của họ.
I. Các chứng cứ lịch sử
A. Qua các thư tịch cổ do chính các sử gia Việt Nam viết vào thế kỷ XVIII – XIX dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn cho thấy Bãi Cát Vàng – Đại Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu.
1. Phủ Biên Tạp Lục:
Là một bộ sách cổ của nhà đại khoa, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784). Bảng nhãn, thượng thư, tổng tài Quốc Sử quán triều Lê, viết về tình hình các phủ huyện của xứ Thuận Hóa và Quảng Nam khi ông trấn nhậm ở hai xứ này.
Cuốn sách được khắc in năm 1776, gồm sáu quyển, đặc biệt trong quyển II đã đề cập đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đến hai lần khá chi tiết thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Trên tờ 78b – 79a của cuốn sách, tác giả đã viết: “Ở ngoài Cù Lao Ré có Đảo Đại Trường Sa, ngày trước nơi đây thường sản xuất nhiều hải vật chở đi bán các nơi, nên nhà nước thiết lập Đội Hoàng Sa để thu các hải vật. Người ta phải đi ba ngày đêm mới đến được Đảo Trường Sa ấy”.
Trên đoạn khác, tác giả viết: “Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập Đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh bổ sung vào…lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch. Họ chèo năm thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo. Họ tha hồ lượm lặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ được những đồ hải vật như gươm, ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ dùng, thiết khối, chì đen, súng ống, ngà voi, sáp ong vàng, đồ chiên dạ, đồ sứ…Đến kỳ tháng tám, Đội Hoàng Sa ấy mới về Cửa Eo rồi tới thành Phú Xuân trình nạp…”
2. Lịch Triều Hiến chương loại chí:
Bộ sách bách khoa lớn này gồm 49 quyển do nhà bác học Phan Huy Chú (1782 - 1840) thị độc Hàn lâm viện, biên tu Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn từ năm 1821 dưới thời vua Minh Mạng cho đến nay 1833 dưới thời vua Tự Đức, trong đó trong phần Địa dư chí (quyển 1 - 5) đã đề cập đến Bãi Cát Vàng: “Thôn An Vĩnh thuộc huyện Bình Dương ở ngoài biển gần phía đông – bắc, ngoài biển có hòn đảo lớn, nhiều núi linh tinh có hơn 130 ngọn, từ trong núi ra biển ước đầy một ngày đường hoặc một vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt, giữa hòn đảo có bãi Hoàng Sa dài độ 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy…Ngày trước, các chúa Nguyễn có Đặt Hoàng Sa gồm 70 người lấy thôn An Vĩnh thay phiên bổ sung vào. Hàng năm, cứ đến tháng ba nhận lệnh đi làm việc, đem theo đồ ăn 6 tháng, dùng 5 chiếc thuyền nhỏ đi 3 ngày 3 đêm mới đến đảo này…Họ ở qua 8 tháng mới trở về Cửa Eo rồi tới thành Phú Xuân”.
3. Đại Nam thực lục tiền biên:
Đây là bộ sử chép theo thể biên niên theo từng đời các Chúa Nguyễn từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đến Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1558 - 1774) do các Sử quan triều Nguyễn biên soạn từ năm 1844 dưới thời vua Thiệu Trị (1841 - 1847), gồm 13 quyển, trong quyển 10 đã ghi về Vạn Lý Hoàng Sa (tức Bãi Cát Vàng): “Tháng 7 mùa thu năm Giáp Tuất (1753) dân Đội Hoàng Sa gặp gió to, dạt vào hải đội Quỳnh Châu, thuộc nhà Thanh. Quan tổng đốc nhà Thanh chu cấp đầy đủ rồi sai đưa về, Chúa sai biết thư gửi qua 1. Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Nghĩa có hơn 130 cồn cát, cách xa hoặc 1 ngày đường hoặc vài trống canh, chiều dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi Vạn Lý Hoàng Sa Châu, trên có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba. Hồi quốc sơ – đầu triều Nguyễn đặt Đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng 3 cưỡi thuyền ra đảo, 3 ngày 3 đêm tới nơi, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có Đội Bắc Hải mộ dân Tư Chính, Bình Cổ hoặc xã Cảnh Dương, sung vào được lệnh cưỡi thuyền nhỏ ra các đảo Côn Lôn ở Bắc Hải thu lượm, cũng do Đội Hoàng Sa cai quản luôn” 2.
4. Đại Nam thực lục chính biên:
Đây là bộ sử đồ sộ, bắt đầu viết năm 1821 dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1841) gồm 6 kỷ, mỗi kỷ viết về một đời vua. Trong kỷ thứ nhất, quyển 52 đời vua Gia Long (1802 - 1820) đã viết: “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816). Vua ra lệnh cho thủy quân đi thuyền ra đảo Hoàng Sa để khám xét và đo đạc hải trình”.
Trong kỷ thứ 2, quyển 122 đã viết “Năm Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15 (1834). Sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền tới đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ. Xong rồi về”.
Cũng trong kỷ thứ hai, quyển 167, năm Minh Mạng thứ 17 (1896), đã viết: “Bộ Công tâu: Đảo (xứ) Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta, đây là nơi rất hiểm yếu, trước đã từng sai vẽ bản đồ, nhưng vì hình thể xa rộng nên chỉ mới vẽ được một số chỗ, vả lại cũng chưa biết nên làm thế nào cho rõ. Hàng năm thường phái người đi quan sát khắp cả để biết tường tận đường biển. Kể từ năm này về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái thủy quân đội mũ (binh biện) cùng giám thành đáp một chiếc thuyền nhằm thượng tuần tháng hai đến Quảng Nghĩa, giao cho hai tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của dân, khiến họ dẫn đường ra đảo Hoàng Sa …Hình thể hiểm trở dễ dàng thế nào phải quan sát, đo đạc cho rõ ràng rồi vẽ thành bản đồ…Tất cả đều nhất thiết phải miêu tả cho rõ, lần lượt đem về dâng trình. Vua y lời tâu. Sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi. Chuẩn bị mang theo mười cái bài gỗ, đến nơi dựng bài lên làm dấu ghi rõ,…mặt bài khắc chữ: “năm Minh Mạng thứ 17, Bính Thân (1836), Thủy đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng lệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.
5. Quốc Triều chính biên toát yếu:
Là bộ sách sử, do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn vào năm 1924, gồm 6 quyển viết về đời vua Gia Long cho đến các vua về sau của nhà Nguyễn. Trong quyển 3 đã ghi sự việc sau: “Dựng Hoàng Sa Thần Từ 3ở Quảng Nghĩa. Hải phận Hoàng Sa thuộc Quảng Nghĩa có một cồn cát trắng, nơi ấy cây cối xum xuê tươi tốt. Ở trong cồn cát có một cái giếng. Phía tây nam có một ngôi miếu cổ, bia đã khắc bốn chữ “Vạn Lý Ba Bình” (muôn vạn sóng yên). Cồn cát trắng kia có tên là Phật Tự sơn. Các bờ đông tây nam đều có san hô. Nơi đây có một đồi đá nổi lên chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với đồi cát gọi là Bàn Thang Thạch. Ra lệnh xây miếu và dựng bia chốn này. Trước miếu có xây bình phong”.
Cũng trong quyển 3 của bộ sử này, đã viết một sự việc xảy ra dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1841): “Tháng 12 (năm bính thân 1836), tàu buôn nước Anh Cát Lợi qua bãi Hoàng Sa bị mắc cạn, ghé vào bờ biển Bình Định hơn 90 người. Vua sai tìm nơi cho ở và hậu cấp tiền gạo. Thuyền trưởng, đầu mục tỏ rất cảm kích…Vua sắc cho phái viên đi Tây Nguyên Nguyễn Tri Phương đem mấy người đó xuống bến Hạ Châu đưa về nước”.
6. Đại Nam nhất thống chí:
Là bộ sách sử lớn được biên soạn theo lệnh vua Tự Đức từ năm 1865 và hoàn thành vào năm 1882, do Quốc Sử quán triều Nguyễn thực hiện đã viết: “Ở phía đông Cù Lao Ré, từ bờ biển Sa Kỳ chạy ghe ra khơi, thuận gió thì ba, bốn ngày sẽ đến nơi. Trên đảo có các núi la liệt hơn 130 ngọn, cách nhau hoặc một vài ngày đường hoặc trong vài trống canh. Trên đảo có bãi Hoàng Sa (Cát Vàng) kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục danh là Vạn Lý Trường Sa…Phía đông đảo này gần Quỳnh Châu thuộc phủ Hải Nam, nước Trung Hoa”.
7. Việt Sử cương giám khảo lược:
Là bộ sách sử Việt Nam, gồm 7 quyển, do nhà sử học Nguyễn Thông, đỗ cử nhân, biên soạn dưới triều Nguyễn và hoàn thành năm 1877 dưới thời vua Tự Đức (1847 - 1883), gồm 7 quyển. Trong quyển 4 đã viết “Vạn Lý Trường Sa thuộc đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (tục gọi ngoài Lao, người Trung Hoa thì gọi là ngoài La). Đi thuyền theo hướng Đông chạy ra, chỉ ba ngày đêm đến nơi. Nước Việt Nam ta xưa kia thường chọn người đinh tráng ở hai hộ An Hải và An Vĩnh đặt làm Đội Hoàng Sa để thu lượm hải sản, mỗi năm cứ tháng 2 ra đi, tháng 8 trở về”.
Ngoài ra trong Châu Bản triều Nguyễncó nhiều văn bản của triều đình nhà Nguyễn viết có liên quan đến Quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
Qua các nội dung của các cuốn sách lịch sử của Việt Nam từ thời nhà Lê cho đến nhà Nguyễn đã cho thấy Quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ thế kỷ XVI và Việt Nam đã hành xử như một quốc gia có chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa thể hiện qua các sự việc như dựng miếu thần Hoàng Sa, thành lập Đội Hoàng Sa để kiểm soát, lập hải trình, vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền, khai thác tài nguyên, thu tiền tàu thuyền nước ngoài và giúp đỡ vật chất cho người nước ngoài bị tai nạn đắm thuyền ở Hoàng Sa và tạo điều kiện cho họ trở về nước. Ngược lại, sự việc nhà Thanh giúp đỡ cho Đội Hoàng Sa của ta bị gió trôi dạt đến địa phận Hải Nam và đưa họ về quê quán; mặc nhiên cho thấy Trung Quốc đã thừa nhận chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa từ lâu.
Qua một số sách và tư liệu cổ của các nước phương Tây đã cho thấy Quần đảo Hoàng Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam từ thời chúa Nguyễn.
1. Vũ trụ, lịch sử, thiên văn và vật lý(La cosmographia istoria astronomica et fisica).
Cuốn sách này của tác giả Bagio Soria in năm 1828 tại Napoli, trong phần 4, tập VI đã nói về đế chế An Nam và ở trang 128 – 131 có câu cuối cùng đã viết rằng: “Thuộc về đế chế này là Quần đảo Hoàng Sa (paracels) bao gồm các đảo và các đá ngầm ở phía đông bờ biển này”. Cuốn sách này hiện được lưu trữ tại thư viện trường Đại học California của Mỹ.
2. Ký sự du hành đến Hoàng Sa(Journal de voyage au Paracels).
Trong Ký sự du hành đến Hoàng Sa của Pháp đã đăng bài viết “Bí mật của những san hô vòng” (Mystere des atolls) của giáo sĩ Pháp Jean Yves Cleays kể lại trường hợp tàu của ông suýt bị đắm tại Quần đảo Hoàng Sa năm 1701 dưới thời hoàng đế Henri IV. Bài viết này về sau được tạp chí Đông Dương (Revue Indochinoise) đăng lại trên số 6.1941, có nội dung như sau: “Người ta nhổ neo khi có gió mạnh và chẳng mấy thời gian người ta đã đến ngang tầm với Hoàng Sa. Hoàng Sa là một Quần đảo thuộc Vương quốc An Nam. Đó là một núi đá kinh khủng dài trên một trăm dặm, bị chỉ trách bởi những vụ đắm tàu mà ở đó gió luôn luôn thổi, nó nằm dọc theo bờ biển của Đàng Trong (tên gọi An Nam trước đây – ghi chú của Jean Yves Cleays – nghĩa là Trung Kỳ hiện nay – đến lượt chúng tôi ghi chú). Tàu Amphitrite trong cuộc hành trình đến Trung Hoa tưởng như bị đắm tại đó…Bị đắm tàu trên các mỏm đá đáng sợ đó và mất hết không còn tài sản thì cũng gần như nhau”.
3. Vũ trụ, lịch sử và mô tả tất cả các dân tộc, tôn giáo, phong tục và tập quán(Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes).
Đây là công trình của giám mục Pháp Jean Louis Tabert được xuất bản năm 1833, trong đó đoạn mô tả lễ nghi chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa với sự chứng kiến của vua Gia Long: “chúng tôi không đi vào liệt kê những hòn đảo chính thuộc xứ Đàng Trong, chúng tôi chỉ nhận xét rằng từ hơn 34 năm, Paracels gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, một mê cung thực sự của các hòn đảo nhỏ và các bãi cát, chính đáng làm lo sợ các nhà hàng hải, đã được chiếm hữu bởi những người xứ Đàng Trong. Chúng tôi không rõ họ có đặt một cơ sở nào không, nhưng chắc chắn rằng hoàng đế Gia Long đã phải gắn thêm hình họa trang trí vào vòng nguyệt quế của mình vì hoàng đế xét thấy cần đích thân đến đấy đúng lúc để chiếm hữu và đó là năm 1816 mà hoàng đế đã long trọng dương cao lá cờ của xứ Đàng Trong”.
Trên thực tế, Quần đảo Hoàng Sa đã được Đàng Trong chiếm hữu sớm hơn rất nhiều từ giữa thế kỷ XVI dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Dù sao tư liệu lịch sử trên cũng đã cho thấy Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu.
4. Lịch sử Đông Ấn(Storia delle Indie Orientale).
Cuốn sách Lịch sử Đông Ấn của tác giả Italia Felica Ripamonti viết về vùng Đông Ấn, trong đó có Việt Nam, được in năm 1825 tại Milan. Trong phần Libro XXII từ trang 124 – 143 của cuốn sách đã dành riêng viết Đàng Trong (Cochinchina). Trên trang 127, tác giả cuốn sách đã viết: “Thuyền trưởng các tàu buôn phải thường xuyên qua lại vùng này thì thích nhập cảng Hội An hơn, cảng này không xa thủ đô Huế. Những người đi biển ở ba cảng này (tức Huế, Hội An, Đà Nẵng) là những người lão luyện nhất của quốc gia này và hàng năm có chuyến đi biển đến chuỗi đảo ra bãi đá nhỏ có tên là Hoàng Sa nằm cách bờ biển Đàng Trong khoảng 20 – 30 dặm”.
Ở đây tác giả cuốn sách muốn nói đến các Đội Hoàng Sa dưới thời nhà Nguyễn hàng năm thám vãng Quần đảo Hoàng Sa để quản lý, cắm mốc chủ quyền, khai thác tài nguyên. Cuốn sách này hiện được lưu trữ tại Trường đại học Michigan của Mỹ.
C. Những sách lịch sử cổ của Trung Hoa thời nhà Tống (960 - 1279), nhà Nguyên (1280 - 1368), nhà Thanh (1614 - 1911) đều cho thấy lãnh thổ của Trung Hoa không bao giờ có Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa.
1. Lĩnh Ngoại Đại Đáp
Cuốn sách lịch sử này do Chu Khứ Phi biên soạn năm 1178 dưới thời nhà Tống, chủ yếu viết về Đông Nam Á, trong đoạn viết về Giao Chỉ Dương (tức Biển Đông) có đề cập đến Thạch Đường (tức Hoàng Sa) và Trường Sa là các Quần đảo nằm ngoài lãnh thổ của Trung Hoa.
2. Thư Phiên Chí
Cuốn sách lịch sử này mà tác giả Triệu Nhữ Quát được biên soạn năm 1225 dưới thời nhà Tống mô tả các nước ngoài, trong đó có nói đến Thiên Lý Thạch Đường và Vạn Lý Thạch Đường (tức Hoàng Sa và Trường Sa) không thuộc địa phận của Trung Hoa.
3. Đảo Dị Chí Lược
Cuốn sách lịch sử này viết dưới thời nhà Nguyên do Vương Gia Nguyên biên soạn năm 1349 viết hàng trăm nước trên thế giới ngoài Trung Hoa, trong đó có nói đến Vạn Lý Thạch Đường thành mục riêng không thuộc Trung Hoa.
4. Hải Lạc
Cuốn sách lịch sử này do Dương Bình Nam biên soạn dươi thời nhà Thanh, ghi chép gần 100 nước trên thế giới, trong phần chép về GiaVa (Indonexia) có nói tới Vạn Lý Thạch Đường và Thiên Lý Thạch Đường thuộc vùng Đông Nam Á nằm ngoài biên giới Trung Hoa.
5. Quỳnh Châu Phủ Chí
Cuốn sách lịch sử này do quận thủ Tiêu Khánh Thức tổ chức biên soạn năm Càn Long thứ 31, 1774, dưới thời nhà Thanh, tương đương với cuốn Hải Nam Tỉnh Chí ngày nay. Trong phần Địa Dư Chí của cuốn sách đã viết rõ là Đảo Hải Nam của Trung Hoa “Nam giáp Chiêm Thành; tây giáp Chân Lạp, Giao Chỉ (tức Việt Nam); đông giáp Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường; bắc giáp huyện Tứ Văn, phủ Lôi Châu”. Như vậy, điểm cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có quần đảo Hoàng Sa (Thiên Lý Thạch Đường) và quần đảo Trường Sa (Vạn Lý Thạch Đường).
6. Doanh Hoàn Chí Lược
Cuốn sách lịch sử này do Bành Ôn Chương biên soạn vào năm 1848 dưới thời nhà Thanh, viết về địa lý thế giới, trong đó có kèm theo bản đồ “Hoàng Thanh thống nhất dư địa đồ” không có Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại vẽ các Quần đảo đó trên bản đồ “Nam Dương đảo đồ” ở vùng Đông Nam Á.
7. Hải Ngoại ký sự
Cuốn sách này của tác giả Trung Hoa Thích Đạn Sán đã từng đến hoạt động ở Đàng Trong Đại Việt dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) vào 1694 – 1695 để truyền thiền phái Tào Động và viết về những điều mắt thấy tai nghe, gồm 6 quyển. Trong quyển IV đã viết về Quần đảo Hoàng Sa của Đại Việt: “…Bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn Lý Trường Sa” mù mịt chẳng thấy cỏ cây, nhà cửa…Thời Quốc vương trước, hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư tấp vào…”
Qua các cuốn sách lịch sử cổ của Trung Quốc, người đọc thấy rằng các tác giả Trung Hoa đã viết rất rõ rằng các Quần đảo Hoàng Sa (Thiên Lý Thạch Đường) và Trường Sa (Vạn Lý Thạch Đường) nằm trong vùng Đông Nam Á hoặc thuộc Đàng Trong Đại Việt mà không nằm trong lãnh thổ của Trung Hoa.
II. Các chứng cứ địa lý
A. Các bản đồ địa lý của nước ta dưới thời nhà Lê, nhà Nguyễn tuy không nhiều, nhưng đều ghi rõ Bãi Cát Vàng – Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc cương vực của Việt Nam.
1. Toản tập Thiên Nam tứ chí lệ đồ thư
Đây là bộ sách về địa lý, gồm bốn quyển mô tả hình thể, sông biển, đường sá của nước ta do Đỗ Bá, tự là Công Đào vẽ vào năm 1771 dưới thời vua Lê Hiến Tông (1740 - 1786) và chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1775) theo lệnh của chúa Trịnh Sâm (1767 - 1782) như một văn kiện nhà nước.
Trong tập bản đồ có vẽ Bãi Cát Vàng và trên các trang 70 – 167 đã ghi nội dung về Bãi Cát Vàng. Chúng tôi xin trích ra đây một đoạn có nội dung chính: “Giữa biển có một dải cát dài, tên gọi là Bãi Cát Vàng dài độ bốn trăm dặm, rộng hai mươi dặm đứng dựng giữa biển…Hàng năm cuối mùa đông, chúa Nguyễn đưa mười tám chiếc thuyền đến đây để lấy hàng hóa, vật sản, được nhiều vàng bạc, tiền tệ, súng đạn và các vật liệu khác…”
Trong tập bản đồ địa lý này còn có bản đồ “Đường qua xứ Quảng” cùng vẽ về Bãi Cát Vàng.
2. Đại Nam thống nhất toàn đồ
Bên cạnh bản đồ địa lý nói trên, còn có một bản đồ vẽ nước ta khá kỹ lưỡng và chính xác, gọi là Đại Nam thống nhất toàn đồ. Một số nhà nghiên cứu nước ta cho rằng bản đồ này do các sử quan triều Nguyễn vẽ vào năm 1839 – 1840 dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1841).
Trên bản đồ ở ngoài Biển Đông ghi rõ “Hoàng Sa” là một chùm đảo kéo dài, đối diện với cửa Đại, cửa Đà Nẵng trong đất liền, còn Quần đảo Trường Sa với nhiều đảo nằm đối diện với địa phận các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa thì ghi là “Vạn Lý Trường Sa”.
Như vậy, qua các bản đồ cổ do các quan lại Việt Nam vẽ trong các thế kỷ XVIII – XIX cho thấy nhà nước phong kiến Việt Nam khẳng định các Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
B.Nhiều sách địa lý và bản đồ địa lý của các tác giả, nhà thám hiểm, nhà hàng hải và giáo sĩ phương Tây đã vẽ Bãi Cát Vàng – Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Vương quốc An Nam.
1.Địa lý học hình thể và chính trị(Geografia Fisica et Politica).
Cuốn các địa lý cổ này do tác giả người Italia Luiji Galant biên soạn và xuất bản năm 1834 tại Napoli. Trong tập III và trên các trang 197 – 198 đã viết: “Cuối cùng chúng tôi phải nói đến một mê cung các đảo nằm ở phía đông Đàng Trong (Cochincina), có tên gọi là Parcel hay Percels (Hoàng Sa ) bao gồm các đảo đá nhỏ và vùng nước nông. Chúng thuộc quyền cai trị của Vương quốc An Nam, cũng như đảo Pirati ở phía đông Đàng Ngoài (Cochino)”.
2.Hiểu biết mới về địa lý(Nuovo compendio di geographia).
Cuốn các địa lý cổ này do tác giả người Italia Andriano Balbi và cộng sự biên soạn và được in năm 1965 tại Milan. Trên các trang 642 – 643 của cuốn sách này đã viết về An Nam: “Thuộc đế chế này còn có Quần đảo Hoàng Sa (paracels), Quần đảo Pirati và Quần đảo Côn Sơn (Pulo Condor)”.
3.Địa lý hiện đại thế giới(Geografia moderna universale).
Cuốn các địa lý cổ này do tác giả người Italia G. R. Pagnozzi xuất bản năm 1823 tại Florence, đã giành nhiều trang từ 182 – 212 của tập III để viết về Vương quốc An Nam (Isole del l’Annam) và trên các trang 207 – 208 đã nói đến Hoàng Sa (Paracel), Cù Lao Chàm (callas), Côn Đảo (Polo Condor), Đảo Nghi Sơn (Bientson) của Vương quốc An Nam.
4.Lược giản Địa lý(Abrege de Geographie).
Cuốn cách của tác giả Andriano Balbi xuất bản năm 1838 tại Pais trên trang 768 đã nói đến Vương quốc An Nam (Cochinchine) và ghi nhiều địa danh thuộc Việt Nam như Hoàng Sa, Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Yên, Quy nhơn…
5.A Balbi’s Allegemeine des geographischen Wissens
Cuốn sách viết bằng tiếng Đức, xuất bản năm 1842 cũng đã dành nhiều dòng nói về Quần đảo Hoàng Sa thuộc Vương quốc An Nam.
6.Bản đồ Ngoại Ấn và các đảo Đông Ấn(Karte von Hinter – Indien und den Ostindischen).
Các nhà thám hiểm hàng hải, giáo sĩ phương Tây trong các thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã vẽ hàng chục bản đồ về châu Á trong đó có Đại Việt. Có lẽ bản đồ châu Á sớm nhất được nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Diego Ribeiro vẽ vào năm 1527 mà trên đó Bãi Cát Vàng được thể hiện dưới dạng một bãi đá ngầm vĩ đại nằm trên Biển Đông.
Đặc biệt trên “Bản đồ Ngoại Ấn và các đảo Đông Ấn” do tác giả E. G. Ravenstein cho in năm 1874 (thời vua Tự Đức) mà trên đó Quần đảo Hoàng Sa đã được ghi rõ ràng là của An Nam: Paracel I n(zu Annam) có nghĩa là Quần đảo Hoàng Sa thuộc nước An Nam.
Qua các tư liệu cổ về địa lý của các nước phương Tây viết từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX đã cho thấy một cách khẳng định Bãi Cát Vàng – Quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu.
C.Ngược lại, những sách cổ về địa lý và các bản đồ của Trung Quốc lại cho thấy một cách hiển nhiên là Bãi Cát Vàng – Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa chưa bao giờ là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc, chưa bao giờ thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
1. Bản đồ Trung Hoa thời nhà Nguyên
Trong sách Lịch cương vực biểu của tác giả Trung Hoa Duan changyi viết dưới thời nhà Thanh có in một bản đồ Trung Hoa thời nhà Nguyên (1280 - 1360) cho thấy biên giới cực nam của nước này là bờ biển Đảo Hải Nam, không hề có Quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
2. Hải Quốc đồ chí
Tập bản đồ cổ của Trung Hoa này, gồm 60 quyển của tác giả Trung Quốc Ngụy Nguyên biên soạn và in năm 1842 dưới thời nhà Thanh (1641 - 1911). Trong quyển 6, tác giả vẽ bản đồ “Đông Dương các quốc diên cách đồ” trên đó vẽ bản đồ Đại Việt chia làm 3 phần: Việt Nam Đông Đô (Hà Nội), Việt Nam Tây Đô (Thanh Nghệ) và Quảng Nam (Đàng Trong); ở ngoài biển ghi Đông Dương Đại Hải với Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa ) và Thiên Lý Thạch Đường (Trường Sa) thuộc chủ quyền Việt Nam. Tác giả Ngụy Nguyên không hề vẽ Tây Sa và Nam Sa.
3. Doanh Hoàn Chí Lược
Cuốn sách này của tác giả Trung Hoa Bành Ôn Chương biên soạn năm 1848 về địa lý thế giới dưới thời nhà Thanh và đã vẽ Trường Sa (tức Hoàng Sa) và Thạch Đường (tức Trường Sa) không vào bản đồ Trung Hoa “Hoàng Thanh nhất thống dư địa đồ” mà vẽ vào bản đồ các nước Đông Nam châu Á “Nam Dương các đảo đồ”.
4. Việt Nam địa dư đồ:
Bản đồ Việt Nam này do một vị quan to Trung Hoa là Xa Khâu Từ Diên Húc vẽ dưới thời nhà Thanh mà tác giả đặc biệt đã dùng đến tên gọi Việt Nam. Trên bản đồ ghi tên nhiều tỉnh của nước ta dưới thời nhà Nguyễn như Cao Bằng, Quảng Yên, Sơn Tây, Phú Xuân…Đặc biệt ở trên Biển Đông đã ghi Tiểu Trường Sa Hải Khẩu và Đại Trường Sa Hải Khẩu, thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam!
5. Hoàng Triều nhất thống dư địa đồ:
Bản đồ địa lý này được Trung Hoa xuất bản năm Quang tự thứ 20, 1894, dưới thời nhà Thanh. Trên bản đồ này chỉ vẽ lãnh thổ cực nam của Trung Hoa là đảo Hải Nam và có lời chú giải nói rõ điểm cực nam của lãnh thổ nhà Thanh là “Nhai Châu, phủ Quỳnh châu, Quảng Đông, ở 18 013’ Bắc”, không hề có Tây Sa và Nam Sa.
6. Quảng Đông dư địa đồ
Tập bản đồ địa lý này được Trung Hoa in năm 1897 dưới thời vua Quang Tự, nhà Thanh, do Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuân đề tựa, không vẽ bất cứ quần đảo nào trên Biển Đông phù hợp với biên giới cực nam của Trung Hoa là bờ biển đảo Hải Nam.
7. Trung Quốc Địa lý học Giáo Khoa thư
Do tác giả Vũ Tiến Đồ biên soạn vào năm Quang Tự thứ 31, 1905, dưới thời nhà Thanh, được xuất bản năm 1906, trong tập I đã viết rõ ràng về địa giới của lãnh thổ Trung Hoa: “Phía nam từ vĩ độ Bắc 18 013’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu, đảo Hải Nam…” không hề có Sisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa) như Trung Quốc từng tuyên bố.
Những tư liệu về địa lý do bản thân những tác giả Trung Quốc vẽ về tổ quốc của mình cho thấy từ thời lịch sử xa xưa cho đến tận nay Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền đối với các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và cũng chưa bao giờ các Quần đảo đó thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
III.Các chứng cứ pháp luật
Theo Luật pháp quốc tế về chủ quyền, chủ quyền quốc gia của một nước phải hội đủ ba quy định về chiếm hữu và quản lý sau đây:
- Lãnh thổ được chiếm hữu phải là đất vô chủ (res nullius).
- Tác giả chiếm hữu phải là một quốc gia hoặc bởi đại diện của quốc gia ấy; sự chiếm hữu tư nhân hay cá nhân không có giá trị pháp lý về chủ quyền;
- Quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện và những hoạt động quản lý liên tục trên lãnh thổ đó;
- Việc chiếm đoạt một vùng lãnh thổ có chủ bằng vũ lực là không có giá trị pháp lý quốc tế về chủ quyền.
1. Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn nằm trong cơ cấu tổ chức của Việt Nam
Quần đảo Hoàng Sa được Việt Nam chiếm hữu vào giữa thế kỷ XVI khi còn là một lãnh thổ vô chủ và không một quốc gia nào phản đối hay bảo lưu dưới thời phong kiến và luôn luôn là một bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức của quốc gia Việt Nam. Từ đầu trong một thời gian khá dài, Hoàng Sa là một địa hạt thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Dương, phủ Quảng Nghĩa dưới sự quản lý của dinh Quảng Nam trên 300 năm.
Trước tình hình chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939 - 1945), ngày 30.3.1938 vua Bảo Đại đã ra Dụ số 10 chuyển Hoàng Sa cho tỉnh Thừa Thiên quản lý.
Sau cách mạng tháng 8/1945, trong kháng chiến chống Pháp năm 1950 Ủy ban kháng chiến Hành chính Đà Nẵng đã thành lập Ủy ban kháng chiến Hành chính Hoàng Sa.
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, ngày 17/7/1961 tổng thống Ngô Đình Diệm đã ký sắc lệnh số 174-Việt Nam đặt Hoàng Sa dưới sự quản lý của tỉnh Quảng Nam và gọi là xã Định Hải.
Đến ngày 21/10/1969, tổng trưởng bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ra Nghị định 709/BNV/HCĐP/26 sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Sau khi nước nhà thống nhất, Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định số 194-HĐBT ngày 11/12/1982 thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Đến ngày 23/1/1997, sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng cho đến nay.
2.Hành xử chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Việc hành xử chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa thể hiện bằng nhiều hành động như công việc thám vãng bảo vệ, xây dựng cơ sở vật chất, cắm mốc chủ quyền, khai thác tài nguyên…một cách liên tục trong quá trình quản lý.
Dưới thời phong kiến, nhà Nguyễn đã thành lập Đội Hoàng Sa, hàng năm hoạt động thám vãng bảo vệ Quần đảo Hoàng Sa trong sáu tháng mùa khô không mưa bão, từ tháng 2 âm lịch đến tháng 8 âm lịch, có nhiệm vụ lập hải trình, vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền, thu tiền tàu thuyền nước ngoài và khai thác tài nguyên. Đội Bắc Hải có nhiệm vụ thám vãng và khai thác tài nguyên ở Quần đảo Trường Sa.
Dưới thời Pháp thuộc, từ 1883 sau Hiệp ước Harmand nước Pháp đại diện cho Việt Nam trong việc quản lý Quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 26/6/1887, Pháp và Trung Hoa ký Hiệp ước Thiên Tân phân định ranh giới giữa Bắc Kỳ của Việt Nam và Trung Hoa (với ý nghĩa ngầm là các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam mà Pháp là đại diện).
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) Pháp quan tâm đến việc bảo vệ các Quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Ngày 8/3/1925, toàn quyền Đông Dương tuyên bố Quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa là lãnh thổ của nước Pháp ở Đông Dương.
Tháng 5/1932, toàn quyền Đông Dương phái pháo hạm Alerte đi tuần tra Quần đảo Hoàng Sa. Tháng 6/1932, Viện Hải Dương học Đông Dương đưa tàu lưới kéo De Lanessan ra Quần đảo Hoàng Sa nghiên cứu khoa học lần thứ ba. Ngày 28/2/1937, thông báo hạm Savorgnan de Brazza được cử đi tuần tra Quần đảo Hoàng Sa và phát hiện thấy người Nhật khai thác trái phép phân chim trên đảo Phú Lâm thuộc nhóm đảo An Vĩnh. Tháng 3/1938, thông báo hạm Marne được điều động ra Quần đảo Hoàng Sa để đặt các khối hình tháp lên các đảo lớn để đánh dấu chủ quyền. Tháng 6/1938, Phủ toàn quyền Đông Dương đưa hải quân chiếm đóng toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa một cách thực sự.
Tiếp đó trong năm 1938, Phủ toàn quyền Đông Dương và triều đình Huế cho xây dựng bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa. Bia cao 3m ghi dòng chữ Pháp “Republique Francaise – Royaume d’Annam. Archipel des Paracels 1816 – Ile Pattle 1938” (Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Hoàng Sa 1816, Đảo Hoàng Sa 1938).
Dưới thời chính phủ Bảo Đại và Việt Nam Cộng hòa, tháng 4/1949, đổng lý văn phòng chính phủ Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo ở Sài Gòn đã khẳng định chủ quyền với Quần đảo Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quyền quản lý Quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Đại. Ngày 7/5/1951, tại Hội nghị San Francisco, thủ tướng chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu tuyên bố khẳng định Việt Nam có chủ quyền từ lâu đối với Quần đảo Hoàng Sa và không một đại diện của 51 nước dự Hội nghị phản đối. Ngày 1/6/1956, Ngoại trưởng chính phủ Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa. Ngày 22/2/1958, 82 ngư dân Trung Quốc đi 5 thuyền tìm cách xâm nhập vào các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Duy Mộng đã bị hải quân Việt Nam Cộng hòa bắt giữ và trục xuất. Ngày 12/1/1974, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã đưa tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Quần đảo Hoàng Sa để tuần tra canh phòng. Ngày 14/2/1975, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã công bố Sách Trắng về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam.
3.Tuyên bố Cairo và Tuyên ngôn Potsdam
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, phát xít Nhật đã chiếm của Trung Quốc Mãn Châu vào năm 1931, chiếm đảo Đài Loan ngày 14/3/1939 và sau đó chiếm tiếp đảo Bành Hồ. Để chống lại cuộc xâm lược của Nhật Bản, ngày 26/11/1943, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đã bí mật họp tại Cairo, Ai Cập và ra Tuyên bố Cairo trong đó ba nước Đồng Minh thỏa thuận với nhau rằng: “Mục tiêu của ba nước là Nhật Bản phải được loại ra khỏi các Quần đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật Bản đã cướp giật hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vào năm 1914 và tất cả những lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ sẽ được trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc”.
Sau đó, ba nước Mỹ, Anh và Trung Hoa ngày 26/7/1945 công bố Tuyên ngôn Potsdam và một lần nữa các đại diện của ba nước đó xác nhận Tuyên bố Cairo. Liên Xô sau khi tuyên chiến với Nhật Bản ở Viễn Đông cũng đã ký vào Tuyên ngôn Potsdam 4.
Như vậy, Trung Hoa đã ký Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam mà trong đó không ghi Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa thuộc Trung Hoa bởi vì trong thực tế các Quần đảo đó thuộc chủ quyền của Việt Nam mà Pháp là đại diện.
Vì vậy, ngày 8/9/1951, Hòa ước ký giữa các nước đồng minh và Nhật Bản trong đó đã ghi rõ Nhật Bản phải từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa và cũng không nói tới việc trao trả Quần đảo này cho Trung Hoa.
Như vậy vào thời đó các ủy viên Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc gồm Mỹ, Anh, Nga và Pháp đều đứng về phía Việt Nam trong vấn đề Hoàng Sa.
4.Quá trính xâm lược trái phép Hoàng Sa của Trung Quốc
Trung Quốc đã có âm mưu xâm lược các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từ lâu, ngay từ dưới thời Trung Hoa Dân Quốc.
Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Sau khi quân đội Pháp trở lại Đông Dương mà chưa kịp đưa quân ra đóng giữ Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa, quân đội của Tưởng Giới Thạch ngày 29/10/1946 lấy cớ giải giáp quân Nhật (thực ra lúc này không còn quân Nhật) đã đưa bốn chiến hạm đến chiếm đảo Phú Lâm thuộc nhóm An Vĩnh của Hoàng Sa và ngày 7/1/1947 Trung Hoa tuyên bố là họ đã “lấy lại” Hoàng Sa(!).
Chính phủ Pháp đã lên tiếng phản đối, yêu cầu quân đội của Tưởng Giới Thạch rút lui nhưng họ không thực hiện, nên đã đưa một lực lượng hỗn hợp Pháp – Việt ra đồn trú trên đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt Thiềm để trấn giữ.
Nhưng đến tháng 4/1950, cuộc nội chiến ở Trung Quốc nghiêng về phía bất lợi cho Quốc Dân Đảng, quân đội của Tưởng Giới Thạch đã tự động rút lui khỏi đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn và nhân cơ hội này quân Pháp làm chủ toàn bộ Hoàng Sa.
Đến năm 1956, Pháp thất bại trong cuộc chiến tranh Đông Dương phải rút khỏi Việt Nam. Lợi dụng tình hình quân đội Bảo Đại chưa kịp thay thế quân Pháp đóng ở Hoàng Sa, vào tháng 4/1956, Trung Quốc lại chiếm toàn bộ nhóm An Vĩnh ở phía đông Quần đảo Hoàng Sa một cách trái phép, gây phản ứng cho các chính phủ ở miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, quân đội Việt Nam Cộng hòa chỉ đóng quân trên nhóm Nguyệt Thiềm ở phía tây Quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 2/1972, Mỹ và Trung Quốc ra Thông báo Thượng Hải và “Mỹ muốn giao Hoàng Sa cho Trung Quốc để chặn đường vào bắc Việt Nam của Hạm đội Liên Xô”. Được Mỹ bật đèn xanh, ngày 17/1/1974 Trung Quốc bắt đầu tấn công nhóm Nguyệt Thiềm và dùng sức mạnh của hải lục không quân để chiếm nhóm Nguyệt Thiềm vào ngày 20/1/1974, vi phạm Luật pháp Quốc tế về chủ quyền vì đã xâm chiếm lãnh thổ có chủ quyền là Việt Nam một lần nữa.
Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam đã công bố lập trường của mình, khẳng định chủ quyền của Việt Nam và yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có thái độ ngang ngược lấn tới, đến tháng 12/2007, họ đã phê chuẩn thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 3/2/2007, Việt Nam phản đối việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa và yêu cầu giải quyết vấn đề trên cơ sở Luật pháp Quốc tế về chủ quyền và công ước của LHQ về Luật Biển.
Âm mưu đen tối của Trung Quốc là muốn xâm chiếm cả vùng Đông Nam Á. Vì vậy, ngày 30/7/1977 ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa đã trắng trợn tuyên bố: “Lãnh thổ Trung Quốc chạy xa mãi về phía Nam tới tận bãi Tăng Mẫu (Jame Shoals) gần Sarawak của Malaixia. Các người có thể thăm dò nếu các người muốn, nhưng khi thời cơ đến, chúng tôi sẽ thu hồi, không cần phải thương lượng vì các Quần đảo đó vốn từ xưa thuộc Trung Quốc”(?!)
Vì vậy, người ta chẳng lạ gì khi thấy trên bản đồ “Trung Hoa Nhân dân Cộng Hòa Quốc” xuất bản từ năm 1950 và các bản đồ Trung Quốc xuất bản gần đây nhất, đã vẽ đường biên giới Trung Quốc “hình lưỡi bò” trên Biển Đông chạy xuống đến tận vĩ tuyến 4 0Bắc, chiếm khoảng 80% Biển Đông bao gồm các đảo của các nước Đông Nam Á và Trung Quốc cũng đã tuyên bố là Biển Nam Trung Hoa (tức là Biển Đông) là “lợi ích cốt lõi của mình”.
Các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam, đã phản đối bản đồ “hình lưỡi bò” của Trung Quốc (hay bản đồ “đường chín đoạn”) bởi vì theo Luật pháp Quốc tế về chủ quyền thì tại sao từ lâu Trung Quốc không hành sự chủ quyền trên vùng lãnh thổ đó mà đến thập kỷ 50 của thế kỷ XX mới nêu lên? Vì vậy, bản đồ đó chẳng có giá trị quốc tế gì về chủ quyền. Một khi đã không đối thoại được thì đã có Luật pháp Quốc tế về chủ quyền, Luật biển Hamburg và Tòa án quốc tế La Haye!
5.Công pháp Quốc tế
Chúng tôi xin nêu ra đây ý kiến khách quan của một nữ luật sư Công pháp Quốc tế là Monique Chemillier Gendreau về chủ quyền đối với các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà bà đã phát biểu trong cuốn sách của mình “Chủ quyền trên các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (La souverainete sur lesarchipels Paracels et Spaley) xuất bản năm 1996. Bà đã khẳng định:
“Như vậy qua việc xem xét kỹ lưỡng do Trung Quốc nêu ra thì thấy rằng các tư liệu tham khảo này chứng minh sự hiểu biết từ lâu về sự hiện diện của nhiều đảo nhỏ nằm rải rác đó đây trong biển nam Trung Hoa (Biển Đông). Nhưng chúng không cho phép đi xa hơn và không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng Trung Quốc có lẽ là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai Quần đảo này.
Đó là kết luận cho phép gạt bỏ những lời khẳng định rườm rà trong nhiều sách hay bài viết khi xem xét các yếu tố được đưa ra để ủng hộ một danh nghĩa lâu đời có lợi cho Trung Quốc.
Ngược lại, từ đầu thế kỷ XVIII, các bằng chứng về cai quản của An Nam đã được xác lập tốt…Đặt mình vào thế kỷ XVIII, người ta có thể bảo vệ được rằng cho tới thời điểm đó, sự tồn tại của các đảo Paracels đã được biết một cách rộng rãi rằng Trung Quốc không thể viện dẫn bất kỳ sự chiếm hữu nào phù hợp các tiêu chuẩn đã được nêu lên ở trên, rằng cuốn sách của Lê Quý Đôn (“Phủ Biên Tạp Lục” khắc in năm 1976) ở Việt Nam là tư liệu đầu tiên nêu các hành vi tương ứng với một sự quản lý nhất định Quần đảo, đó là sự quản lý có niên đại từ những năm đầu của thế kỷ XVIII.
Như đã thấy ở phần trên, các tư liệu của Trung Quốc không cho phép xác định là đã có sự thủ đắc chủ quyền lãnh thổ cho đến đầu thế kỷ XVIII. Cuối cùng người ta nhận thấy rằng khi Trung Quốc viện lý về chế độ chư hầu để đòi các quyền của Việt Nam đã giành được phụ thuộc về Trung Quốc (khi luận chứng về vấn đề chư hầu bị loại bỏ), Trung Quốc chỉ còn lại việc công nhận rằng các quyền đã được thụ đắc thực sự. Trong khi đó các quyền này chỉ là của Việt Nam”.
Thêm vào đó, trong buổi phát sóng vào tối 1/1/1999 trên đài phát thanh RFI của Pháp, nữ luật sư Công pháp Quốc tế là Monique Chemillier Gendreau đã phân tích những diễn biến gần đây trên Quần đảo Trường Sa và đã khẳng định: “Việt Nam là quốc gia duy nhất có đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa. Trung Quốc không hề có cơ sở lịch sử vững vàng để đòi hỏi chủ quyền đối với các Quần đảo ở Biển Đông”.
Như vậy, Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm đoạt nhóm An Vĩnh ở phía đông Quần đảo Hoàng Sa vào tháng 4/1954 và chiếm đoạt nhóm Nguyệt Thiềm ở phía tây Quần đảo Hoàng Sa vào ngày 20/1/1974, một bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền lâu đời của Việt Nam, là vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, vi phạm Luật pháp Quốc tế về chủ quyền và vi phạm chủ quyền của Việt Nam.
Nhà cầm quyền Trung Quốc phải trả lại Quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam!./.