Những cây thuốc trị HIV/AIDS
Từ năm 1981 đến nay nhiều nhà khoa học Mỹ, Thái Lan, Hồng Kông, Ấn Độ, Trung Quốc,… đã có những công trình nghiên cứu một số cây thuốc có khả năng Trị HIV/AIDS. Chúng tôi xin giới thiệu một số cây thuốc thông thường có tại tỉnh Lâm Đồng hoặc những cây thuốc dễ mua để bạn đọc tham khảo, khi cần có thể sử dụng:
1. Rau Giấp cá (Houttuynia cordata Thumb.)
Trong tinh dầu Giấp cá có tính kháng sinh, kháng khuẩn, kháng virút, kháng ký sinh trùng có tác dụng đối với kiết lỵ amib, siêu khuẩn sởi, vi khuẩn ngoài da, mụn rộp sinh dục, cúm và siêu vi HIV (nó có tác động vào vỏ bọc protein của HIV).
Dùng rau tươi ăn sống hoặc xay nát uống hoặc giã nhỏ đắp ngoài da, ngày dùng từ 40-50g.
2. Cây rau ngót (Sauropus androgynus L.Merr.)
Trong 100g rau Ngót có chứa gần 600mg papaverin, chất này có tác dụng chống co thắt cơ trơn, ức chế enzim phosphodiesterase, ức chế sự tổng hợp protein của siêu vi HIV (tương tự thuốc tri AIDS gọi là antiprotease). Dùng rau tươi nấu canh ăn hoặc xay nhuyễn để uống, ngày dùng 100-200g.
3. Cây Chè (Camellia slensis L.)
Trong lá Chè, có chứa tanin thuộc nhóm polyphenol gọi là catechin như Epigalocatechin, Epigalocatechingalat. Chất Epigalocatechingalat có tác dụng ức chế enzim sao chép ngược của siêu vi khuẩn HIV, nhờ đó khống chế sự sinh sản của HIV. Có thể dùng là trà tươi uống hàng ngày.
4. Đậu Nành ( Glycine max L.)
Chất Soyasaponin của đậu Nành có tính kháng sinh chống nhiều loại siêu vi khuẩn như virus mụn rộp, vius cúm và cả HIV. Chất Saponin của đậu Nành làm hạn chế HIV hoạt động trong cơ thể. Đậu Nành dùng làm thực phẩm ăn hàng ngày.
5. Cây Xoài ( Mangifera indica L.)
Trong lá Xoài và đặc biệt trong quả Xoài chín có chứa nhiều chất Mangiferin. Ngoài ra trong lá Xoài còn chứa Astragalin, Quercetin, Isoquercetin, Fisetin, Acid galic. Chất Mangiferin và các chất nêu trên có tính kháng sinh làm tăng sức đề kháng cơ thể nên có tác dụng ngừa ung thư và trị mụn rộp trong bệnh AIDS.
6. Cây Kiến cò ( Rhinacanthus nasutus (L.) Kurs.)
Trong lá chứa Rhinacanthin, Oxymetilanthraquinon, Acid Chrisophanic có tác dụng trị nấm, mụn rộp trong bệnh AIDS. Dùng lá tươi giã đắp.
7. Cây Cam thảo nam (Scoparia dulcis L.)
Toàn cây chứa Amelin, Triacontin, Hexacosanol, Sitosterol, D-Manitol, Triterpenoid. Những chất này ngoài tác dụng khác còn có tác dụng ức chế virus Herpes Simplex của bệnh mụn rộp trong bệnh AIDS.
8. Cây Cam thảo bắc (Glycyrrhiza glabra)
Trong cây Camthảo có chứa Glycyrhizin dùng uống có hiệu lực chống HIV/AIDS. Người ta đã nghiên cứu cho bệnh nhân nhiễm HIV uống Cam thảo (mỗi ngày 150-225mg glycyrrhizin) trong 3 - 7 năm cho thấy duy trì hệ miễn dịch tốt và không bệnh nhân nào chuyển sang giai đoạn AIDS.
9. Cây Măng cụt (Garcinia Mangostana L.)
Trong vỏ quả Măng cụt có chứa nhiều chất Mangostin, Mangostin-3-6-0 glucosid, Gartanin Iso Mangostin, Mangostin triacetat,… có tính kháng sinh mạnh. Đặc biệt chất Alfa Mangostin và Gamma Mangostin có tính chống HIV-1.
10. Cây Bông vải Ấn (Gossypicun herbaceum L.)
Cây này dễ trồng để lấy bông dệt vải, chứa Gossipol và các hoạt chất khác có tính kháng siêu khuẩn. Chất Gossipol giúp bảo vệ bạch cầu T chống HIV và chống sự tạo protein khiến HIV không phát triển được.
11. Cây đậu Rựa ( Canavallia gladiata Jacq. Q. P. de Can.)
Quả đậu Rựa lúc còn non ăn ngon như đậu Cô ve. Khi quả chín, hạt có hàm lượng protein cao. Trong hạt có chứa chất Concanavalin (Phytohemaaglutinin) có tác dụng chống ung thư và chống HIV.
12. Cây Lô hội ( Aloe vera) còn gọi là cây Nha đam
Cây Lô hội tươi có chất Saccharid. Trong Saccharid chứa Acemannan có tính chống siêu vi và tăng cường hệ miễn dịch cơ thể, nhất là trong điều trị AIDS. Chất Acemannan giúp nâng cao tác dụng của AZT (thuốc điều trị AIDS).
13. Cây Xuyên Tâm Liên ( Andrographis paniculata) còn gọi là cây Công cộng
Trong cây Xuyên Tâm Liên chứa Adrophan, Andrographin, Andrographolid, Vanicatin, Paniculid A, B, Neoangrapholid A, B, C, Desoxiandrographolid, Apigenin 7, 4 Dimetileste,… có tính sát khuẩn, kháng siêu vi, kháng HIV và làm tăng sức đề kháng cơ thể. Liều dùng 12g/ngày. Dùng cành, lá khô sắc uống.*
Nguồn: Thông tin khoa học và công nghệ, số 1- 2006, tr 34, 35