Nhóm nghiên cứu - yếu tố quyết định chất lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học
Đầu năm 2008, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã triển khai một dự án nhỏ nhưng với mục tiêu lớn: Đề xuất giải pháp để Việt Nam có được các giải thưởng quốc tế lớn về khoa học và công nghệ (KH&CN) do GS-TSKH Vũ Minh Giang - Phó Giám đốc chủ trì và tôi được phân công một nhánh (lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững).
Để thực hiện nhiệm vụ, tôi đã chọn phân tích một số trường hợp điển hình: Những giải thưởng quốc tế tiêu biểu như Giải thưởng Nobel Hòa bình (Nobel Prize), Giải thưởng Hành tinh xanh (The Blue Planet Prize) và những người đoạt giải thưởng mà tôi được biết (ông Al Gore - Giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2007; GS Võ Quý, Dr. Gene E. Likens và Dr. F. Herbert Bormann - Giải thưởng Hành tinh xanh năm 2003…). Tập thể của GS Phan Nguyên Hồng là một điển hình tôi tập trung phân tích nhiều nhất nhưng mới chỉ có được những giải thưởng quốc gia. Để nhất quán, tôi ghi là “GS Phan nguyên Hồng - Người được các giải thưởng quốc gia và xứng đáng được nhận giải thưởng quốc tế”.
Bản thảo số 1 của Báo cáo dự án trong nhánh của tôi được nộp vào tháng 5.2008 (theo quy định) và rất bất ngờ là khi hoàn thiện Báo cáo cuối cùng vào cuối tháng 7.2008 thì tôi nhận được thông báo: GS Phan Nguyên Hồng đã được Ủy ban Giải thưởng Cosmos quốc tế chọn là người đoạt giải năm 2008 - Giải thưởng lần thứ 16 của Ủy ban và là lần đầu tiên trao cho một người Việt Nam. Đây là niềm vui, niềm tự hào chung cho giới khoa học Việt Nam, nhưng với riêng tôi còn có một niềm vui khác nữa là điều mình tin tưởng đã thành sự thật và tôi đã có thể hoàn thiện Báo cáo với kết luận rất khách quan, rõ ràng cho những phân tích của mình trên một ví dụ sống động của Việt Nam về các giải pháp để có được các giải thưởng quốc tế lớn.
Bài viết này muốn được chia sẻ hai điều tâm đắc nhất trong Báo cáo: Đại học nghiên cứu (ĐHNC); nhóm NCKH - tế bào của ĐHNC và của hệ thống nghiên cứu nói chung.
Hai GS của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (CRES) được nhận giải thưởng quốc tế lớn
GS Võ Quý, người đoạt Giải thưởng Hành tinh xanh năm 2003 và GS Phan Nguyên Hồng, người đoạt Giải thưởng Quốc tế Cosmos năm 2008 đều là các GS đã từng làm việc tại CRES thuộc ĐHQGHN.
Các công trình khoa học đoạt giải thưởng quốc tế trước hết phải là các công trình khoa học tiêu biểu nhất tại thời điểm đó, có ý nghĩa chiến lược và đóng góp thiết thực cho thực tiễn phát triển của xã hội ở phạm vi quốc gia và/hoặc quốc tế.
Khi xét chọn Giải thưởng Hành tinh xanh, Ủy ban Giải thưởng đã xem xét hết sức thận trọng 138 nhà khoa học của 135 nước trên thế giới được đề xuất và cuối cùng chọn được 3 người: GS Võ Quý đoạt một giải và 2 GS Hoa Kỳ (Dr. Gene E. Likens, Dr. F. Herbert Bormann) đoạt chung một giải.
Giải thưởng Comos cũng tương tự như vậy, GS Phan Nguyên Hồng đã được Ủy ban Giải thưởng quyết định trao giải sau 4 lần họp xem xét 131 người của 25 nước được đề cử (trước khi quyết định, Ban thư ký của Uỷ ban đã trực tiếp sang làm việc tại Việt Nam với tập thể của GS Phan Nguyên Hồng và tham quan trên thực địa).
Trong quá trình hoạt động khoa học, GS Võ Quý và GS Phan Nguyên Hồng có nhiều điểm tương đồng. Hai GS đều là các nhà khoa học đầu ngành, bắt đầu giảng dạy đại học từ những ngày đầu sau hòa bình lập lại (1954), đều tập trung vào hướng bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, hướng tới cộng đồng và người nghèo; đều có các tập thể NCKH tự xây dựng, tự hạch toán và có những đóng góp lớn cho đất nước và quốc tế.
GS Võ Quý là người sáng lập CRES năm 1985 và là Giám đốc đầu tiên từ đó đến năm 1995. GS Phan Nguyên Hồng là người sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Hệ sinh thái Rừng ngập mặn (Mangrove Ecosystems Research Centre - MERC, là một đơn vị thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) năm 1987 và là Giám đốc Trung tâm đến năm 1995 và là Phó Giám đốc CRES, Trưởng ban Nghiên cứu Hệ sinh thái Rừng ngập mặn (Mangrove Ecosystems Research Division - MERD) cho tới năm 2007 (năm 1995, MERC và CRES được nhập lại với tên chung là CRES khi Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là một đơn vị của ĐHQGHN, khi đó MERC chuyển thành MERD thuộc CRES nhưng mọi hoạt động và tổ chức vẫn trên khung cũ).
CRES cũng như MERC trước đây và MERD sau đó, đều hoàn toàn không có kinh phí bao cấp. Kinh phí hoạt động chủ yếu dựa vào các đề tài, nhất là các đề tài hợp tác quốc tế mà các thành viên “xoay sở” được hoặc được sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Trong điều kiện như vậy, những người đứng đầu không chỉ phải tổ chức tốt các hoạt động chuyên môn mà còn phải chăm lo cả về đời sống vật chất và tinh thần cho cả tập thể. Làm được điều này, cần cả 3 tiêu chí: Tâm (tâm đối với khoa học và với xã hội), tài (tài trong khoa học và tài tổ chức) và sự cố gắng liên tục, bền bỉ.
Hai GS đều theo đuổi một hướng nghiên cứu rõ ràng và lãnh đạo tập thể quyết tâm thực hiện. Hướng nghiên cứu của GS Võ Quý là bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng; còn của GS Phan Nguyên Hồng là nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn kết hợp với đào tạo SĐH để giúp đỡ các địa phương phục hồi, bảo vệ, sử dụng hợp lý tài nguyên, góp phần nâng cao đời sống của người dân nghèo ven biển. Các hướng nghiên cứu này và cách tiếp cận để giải quyết vấn đề (dựa vào cộng đồng) ngày càng được cộng đồng quốc tế quan tâm và đầu tư. Điều được đánh giá cao nhất là các GS đã hiện thực hóa các ý tưởng quốc tế vào Việt Nam và các ý tưởng quốc gia vào từng hoàn cảnh cụ thể, góp phần nâng cao đời sống, ý thức và hành vi bảo vệ môi trường của cộng đồng địa phương nơi nghiên cứu, đồng thời từ đó cũng đóng góp các bài học của Việt Nam cho thế giới.
![]() |
| GS Võ Quý nhận Giải thưởng Hành tinh xanh |
GS Phan Nguyên Hồng theo đuổi hướng nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn - một vấn đề ngày càng có tầm quan trọng trong khoa học và nhất là trong thực tiễn từ năm 1965. Hướng nghiên cứu này được MERD liên tục phát triển từ khi thành lập đến nay. Thời gian đầu chỉ là điều tra cơ bản thành phần loài, phân bố; lúc đầu chỉ là thực vật, sau đến động vật và hiện nay là cả vi sinh vật và hệ sinh thái: Cấu trúc, chức năng, dịch vụ, các nguyên nhân tác động, các giải pháp phục hồi, bảo tồn, phát triển; từ nâng cao nhận thức cho cộng đồng, cho học sinh các trường phổ thông, các cấp chính quyền đến các giải pháp trồng lại và phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn; đề xuất các giải pháp để phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, kiện toàn chính sách, chiến lược ở các cấp quốc gia, khu vực và quốc tế (đặc biệt là trong mối đe dọa của biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay).
Điều quyết định và cũng là một thành công của GS Phan Nguyên Hồng là ông đã tổ chức được một tập thể NCKH mạnh để thực hiện các mục tiêu đề ra. MERD gồm những cộng tác viên mà phần lớn là các học trò do chính GS đào tạo. Mọi hoạt động của MERD đều rất rõ ràng và minh bạch, đặc biệt là về chuyên môn và tài chính... Các đề tài/dự án khoa học của MERD được quản lý chặt chẽ, nhất là khâu thẩm định và nghiệm thu, đảm bảo chất lượng (kể cả các đề tài do các cán bộ trẻ chủ trì). Có bạn trẻ nói với tôi: Sợ GS Hồng lắm, nhất là lúc bảo vệ đề cương và nghiệm thu đánh giá đề tài, luận án, đặc biệt là về phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và các số liệu gốc. Tôi cười và nghĩ là các bạn thật may mắn khi được làm việc với một GS như vậy… Đây chính là cơ sở quan trọng nhất để tạo ra sự đồng thuận cao trong tập thể và điều quan trọng hơn là tạo ra những kết quả khoa học được kế thừa và ngày càng phát triển.
Các hoạt động chuyên môn của CRES/MERD luôn được gắn bó trong sự hợp tác chặt chẽ với cộng đồng, địa phương theo phương châm dựa vào dân (dân biết, dân bàn, dân tham gia thực hiện), kết hợp với công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho họ.
Về thông tin, tư liệu, bên cạnh thư viện chuyên môn do mọi người cùng xây dựng, đóng góp (nhất là sau các chuyến công tác nước ngoài), MERD còn có hệ thống lưu trữ cẩn thận và hệ thống. Tất cả các số liệu khoa học, báo cáo của các đề tài, dự án, luận văn, luận án đều được lưu trữ tại cơ quan - một nguồn vốn quý giá cho tất cả mọi thành viên.
Các hoạt động R&D là kết quả quan trọng nhất của CRES/MERD. Sau 20 năm hoạt động (1985-2005), cán bộ của CRES đã là Chủ nhiệm của 4 trong số 6 chương trình cấp nhà nước về tài nguyên, môi trường và thiên tai, hơn 45 đề tài hợp tác quốc tế (28 với Hòa Kỳ) và hàng trăm đề tài KH&CN các cấp. Riêng MERD của GS Hồng đã chủ trì 4 đề tài cấp nhà nước, 5 đề tài cấp bộ, 13 đề tài hợp tác quốc tế.
Hoạt động tổng kết và xuất bản cũng được đặc biệt chú ý. Trong 20 năm, MERD đã xuất bản 11 tuyển tập báo cáo hội nghị khoa học quốc tế và quốc gia bằng tiếng Việt và tiếng Anh; 16 sách chuyên khảo tiếng Việt, tiếng Anh; đồng tác giả của 8 cuốn sách xuất bản ở nước ngoài và hàng trăm bài báo khoa học trên các tạp chí trong nước và quốc tế. Nhờ vậy, vị thế của MERD ngày càng được nâng cao và được nhiều tổ chức quốc tế cộng tác, hỗ trợ về chuyên môn, đào tạo cũng như tài chính.
![]() |
| GS Phan Nguyên Hồng giới thiệu về vai trò của hệ sinh thái rừng ngập mặn với môi trường cho giáo viên THCS vùng ven biển. |
Một khía cạnh nữa không thuộc về chuyên môn nhưng rất quan trọng cũng cần được đề cập là các sinh hoạt tập thể (mà ở nước ngoài gọi là hoạt động xây dựng nhóm - team building activities). Các chuyến tham quan ở trong nước (và cả ở nước ngoài) theo phương châm Nhà nước và dân cùng đóng góp; các sinh hoạt học thuật, xã hội khác cũng là nhân tố quan trọng, giúp tăng cường hơn sự hiểu biết lẫn nhau, sự chia sẻ, gắn bó, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động (giá trị) của cả cá nhân và tổ chức.
Kinh nghiệm quốc tế
Ở nước ngoài, nhất là ở các nước phát triển, các nhóm/tập thể NCKH là hình thức tổ chức phổ biến để tiến hành các hoạt động KH&CN và đào tạo SĐH. Xin lấy một số ví dụ ở những nơi tôi đã từng được học tập và làm việc.
Trường Đại học Tổng hợp (ĐHTH) Mátxcơva mang tên Lômônôxốp, có hệ thống tổ chức điển hình cho một trường đại học hiện đại: Trường, rồi đến khoa, dưới khoa là các bộ môn và trong bộ môn là các nhóm nghiên cứu. Bộ môn Côn trùng, ĐHTH Lômônôxốp (nơi tôi làm nghiên cứu sinh, 1970-1974) là một trường phái lớn của thế giới về Phỏng sinh học (Bionics) với 3 tập thể NCKH mạnh do 3 GS chủ trì, nghiên cứu về cơ chế thị giác, thính giác và cơ quan cảm giác hóa học của côn trùng. Ngoài các tập thể như vậy, trong mỗi bộ môn, trong trường còn có các tập thể NCKH liên bộ môn, liên khoa, các viện và trung tâm, tạo nên hệ thống NCKH rất vững mạnh.
Các Chương trình hợp tác giữa các trường đại học Hà Lan và Việt Nam từ sau năm 1975 đến những năm 90 đã giúp đỡ rất nhiều các trường đại học của Việt Nam phát triển, trong đó có Trường ĐHTH trước đây. Các Chương trình này đã được tổ chức dưới hình thức các nhóm NCKH. Mỗi nhóm theo một chủ đề chuyên môn được lựa chọn (thường là các vấn đề hiện đại) và bao gồm các cán bộ của Việt Nam và Hà Lan cùng tham gia. Nội dung hợp tác bao gồm các chương trình trao đổi và đào tạo cán bộ, cung cấp trang thiết bị và NCKH. Hiệu quả của Chương trình là rất to lớn, nhất là trong hoạt động xây dựng năng lực (đào tạo nhân lực và cung cấp trang thiết bị). Một số nhóm nghiên cứu đã hình thành và phát triển tốt cho tới ngày nay (nhóm Vật lý nhiệt độ thấp của Khoa Vật lý là tiền thân của Trung tâm Nghiên cứu Vật liệu của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN…). Tuy nhiên, một số nhóm đã không còn duy trì được khi Chương trình kết thúc do nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ do chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam lúc đó (nhưng đây cũng là các bài học quý đối với chúng ta về cách xây dựng nhóm NCKH). Các trường đại học của Hà Lan thời ấy cũng được tổ chức theo các đơn vị nghiên cứu - các viện nghiên cứu với các nhóm nghiên cứu - nơi tiến hành các hoạt động NCKH và đào tạo SĐH. Các cán bộ của viện tham gia giảng dạy với sự điều hành của khoa theo các chương trình đào tạo chung. Như vậy, điều hành các hoạt động đào tạo chỉ do bộ phận quản lý chương trình và giáo vụ mà không có cán bộ giảng dạy cơ hữu, còn lực lượng NCKH và tham gia đào tạo là hệ thống các viện và phòng thí nghiệm của Trường.
Trường ĐHTH Ruhr, Bochum , CHLB Đức cũng có tổ chức tương tự: Dưới Trường là các khoa, dưới khoa là các viện, trong viện là các tập thể NCKH do các GS C4 (Full Prof) lãnh đạo. Chương trình đào tạo chung, các môn học cơ bản và cơ sở của hệ đại học do khoa quản lý, nhưng lại là các cán bộ đầu ngành của các viện giảng dạy. Còn đào tạo SĐH thì gần như hoàn toàn ở viện. Khi làm luận văn, luận án tốt nghiệp, học viên làm ở các viện, thường là tham gia thực hiện các đề tài của GS.
Gần đây nhất (năm 2005), tôi được tham gia đoàn cán bộ của Hội đồng Khoa học Tự nhiên, Bộ KH&CN thăm Quỹ Khoa học và một số trường đại học của Hoa Kỳ do cố GS-VS Nguyễn Văn Đạo làm trưởng đoàn. Một trong những ấn tượng sâu sắc nhất của chúng tôi là khi thăm và làm việc với GS Laurence D. Etkin - chuyên gia hàng đầu thế giới về sinh học phân tử bệnh ung thư, Đại học Texas . Đây là một tập thể NCKH điển hình chuyên về sinh học phân tử. Khi ngồi ăn trưa với cả nhóm, chúng tôi đã làm quen với hai thực tập sinh sau TS đến từ Trung Quốc và Ba Lan, 6 nghiên cứu sinh đến từ Costa Rica, Hàn Quốc, Nhật Bản làm việc trong 3 phòng thí nghiệm do GS phụ trách. Tất cả họ còn rất trẻ và đầy hoài bão, tâm huyết. Chiếc bảng tin đơn giản treo phía ngoài phòng chỉ là một dãy các bài báo vừa được công bố của họ. Theo GS Laurence, học bổng và hướng luận án của các nghiên cứu sinh hàng năm đã được xác định theo các dự án đã có của Trung tâm. Khi đươc nhận vào học tại Trung tâm, trong khoảng 6 tháng đầu, các nghiên cứu sinh lần lượt làm việc với các nhóm chuyên môn hẹp với hai mục tiêu: Làm quen với tất cả các hoạt động chuyên môn khác nhau của hướng nghiên cứu; lựa chọn hướng chuyên môn thích hợp và quyết định đề tài luận án.
Trong thời đại ngày nay, khi tính chất liên ngành, xuyên ngành được quán triệt không chỉ trong hoạt động KH&CN, mà trong tất cả các hoạt động xã hội đều phải làm việc trong sự hợp tác: Làm việc theo nhóm (Teamwork/Tearm working), xây dựng nhóm làm việc (Tearm building), văn hóa làm việc nhóm. Triết lý làm việc theo nhóm là hiệu ứng số đông (chứ không phải là số đông), là hiệu quả của sự kế thừa và lũy tiến. Nếu nhóm người hợp tác để làm việc cùng nhau thì hiệu quả chung sẽ tăng lên rất nhiều so với làm việc theo mục tiêu của từng cá nhân và sẽ được lũy tiến theo thời gian. Vì khi đó, thế mạnh của từng người sẽ được phát huy tối đa theo sự cộng hưởng lẫn nhau, còn điểm yếu thì lại được bù đắp.
Bài học từ các giải thưởng
Để có được các công trình khoa học lớn đoạt giải thưởng quốc tế (qua phân tích cụ thể trường hợp của GS Võ Quý và GS Phan Nguyên Hồng), cần nhiều yếu tố, nhưng trong đó có một yếu tố quan trọng và cũng là nội dung xin được trao đổi ở đây là có một tập thể NCKH thực sự. Có thể khái quát một số tiêu chí của tập thể đó như sau:
- Có người đứng đầu có trình độ khoa học, năng lực tổ chức và nhiệt huyết trong NCKH. Có lẽ đây là tiêu chí quan trọng nhất.
- Có định hướng khoa học đúng, phù hợp với xu hướng quốc tế, phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất nước.
- Có điều kiện nghiên cứu phù hợp, gồm trang thiết bị (cả điều kiện để vận hành) và nguồn thông tin, tư liệu đầy đủ, cập nhật.
- Tập hợp được đội ngũ cán bộ có nhiệt huyết và hoài bão khoa học, nhất là các cán bộ khoa học trẻ, các thực tập sinh sau TS, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên làm khóa luận; xây dựng và phát huy năng lực của tập thể, tạo sự đoàn kết, nhất trí cao trong mọi hoạt động.
- Kiên trì theo đuổi hướng chuyên môn đã lựa chọn, quyết tâm vượt qua các khó khăn về điều kiện làm việc, thậm chí sức ép về mặt xã hội để đạt được mục tiêu khoa học của mình. Các kết quả khoa học được tích lũy, phát triển và được công bố rộng rãi trên các tạp chí trong nước và quốc tế.
- Có quan hệ hợp tác tốt (trong nội bộ và với các cơ quan bên ngoài, đặc biệt là hợp tác quốc tế).
Nguồn năng lượng của tập thể NCKH là các đề tài/dự án. Vì vậy, khả năng tham gia tuyển chọn các loại đề tài KH&CN theo hướng nghiên cứu vừa là chỉ tiêu đánh giá chất lượng, vừa là yếu tố quyết định tới khả năng phát triển của tập thể.
Kết luận và khuyến nghị
Tập thể/nhóm NCKH như là tế bào, là đơn vị cấu trúc và chức năng của bất kỳ hệ thống nghiên cứu nào, cùng với cơ chế tổ hợp của chúng là yếu tố quyết định cho sự thành công của hoạt động KH&CN cũng như đào tạo SĐH của bất kỳ cơ quan, tổ chức và quốc gia nào. Nó giống như các tế bào tạo nên mô, mô tạo nên cơ quan, hệ cơ quan, cơ thể, quần thể, quần xã các hệ sinh thái và cả thế giới sinh vật phong phú, đa dạng và hữu ích.
Từ hai trường hợp của GS Phan Nguyên Hồng và GS Võ Quý, có thể khẳng định, các nhà khoa học Việt Nam, ngay trong điều kiện thực tế hiện nay (điều kiện nghiên cứu còn khó khăn, hệ thống chính sách còn chưa hoàn thiện) vẫn có thể có được các công trình khoa học đạt trình độ cao, ngang tầm khu vực và quốc tế.
Ở tầm vĩ mô và lâu bền, để có được các tập thể NCKH mạnh, đạt chuẩn quốc tế cần 3 yếu tố: Nguồn nhân lực chất lượng cao; các hoạt động KH&CN được quản lý minh bạch và hiệu quả; quản lý nguồn nhân lực hiệu quả (theo giá trị). Cụ thể:
Một là, cần có những nhà khoa học có khả năng, trình độ và đặc biệt là say mê sáng tạo; nói rộng hơn nữa là có nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều này liên quan tới hệ thống giáo dục, đào tạo. Trong điều kiện hiện nay, nguyên tắc chung để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là đào tạo qua nghiên cứu và cho nghiên cứu theo xu hướng hội nhập. Đổi mới tổ chức đào tạo SĐH và sau TS theo phương châm: Luận án/luận văn là một phần của các công trình NCKH; nghiên cứu sinh và các thực tập sinh sau TS là lực lượng NCKH chính trong các tổ chức KH&CN.
Hai là, có môi trường NCKH tốt, liên quan trước hết tới hệ thống quản lý (thể chế, chính sách, tổ chức, quản lý, thanh tra, kiểm tra, đầu tư...) cho các hoạt động KH&CN cũng như NCKH trong hệ thống từ cấp quốc gia tới cấp cơ quan quản lý, và cuối cùng tới các tập thể khoa học của các nhà khoa học. Hoạt động KH&CN phải được tiến hành theo cách tiếp cận “suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương”, trong sự cân nhắc một cách phù hợp với bối cảnh quốc tế, quốc gia và địa phương, đơn vị. Khuyến nghị:
- Xây dựng Chiến lược KH&CN quốc gia, ngành, các kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm để thực hiện Chiến lược.
- Kiện toàn công tác quản lý nhà nước, quy trình xây dựng và quản lý các chương trình, đề tài/dự án KH&CN, đặc biệt là khâu đề xuất nhiêm vụ.
- Trong hoạt động KH&CN, chú ý đồng thời tới sản phẩm KH&CN và tăng cường năng lực của các tổ chức KH&CN nhằm đảm bảo tính kế thừa, phát triển và bền vững của các kết quả hoạt động.
Ba là, có cơ chế quản lý nguồn nhân lực hiệu quả, phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo, cơ chế hợp tác, phối hợp của các tổ chức KH&CN cũng như bản thân các nhà khoa học. Khuyến nghị:
- Xây dựng và phát triển các tập thể NCKH mạnh, cao hơn nữa là các trung tâm xuất sắc (Centre of excellence) hay các trường phái khoa học.
- Xây dựng cơ chế vận hành và phối hợp trong R&D theo nguyên tắc “cây tre trăm đốt”.
Bốn là, phát triển các mối quan hệ hợp tác, đặc biệt là hợp tác quốc tế.
Năm là, cần xây dựng một hệ thống thể chế, chính sách phù hợp và đồng bộ.










