Nhận thức của các tầng lớp nhân dân đối với việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia
Cuối năm 2010, Ban Tuyên giáo Trưng ương phối hợp với Viện Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức khảo sát “Nhận thức và thái độ của các tầng lớp nhân dân về biển đảo Việt Nam”. Cuộc khảo sát được tiến hành tại 3 tỉnh, thành duyên hải (Nam Định, Nghệ An, Sóc Trăng) với 3 nhóm đối tượng là: 1) Dân thường từ 18 tuổi trở lên cư trú tại các khu vực ven biển; 2) Cán bộ lãnh đạo, quản lý khối đảng, chính quyền, ban ngành đoàn thể xã hội tại các địa phương; 3) Sinh viên một số trường đại học, cao đẳng. Bài viết dưới đây giới thiệu những kết quả chính của cuộc khảo sát này.
1. Nhận thức về tranh chấp trên biển, đảo
Câu hỏi hiện nay Việt Nam có tranh chấp chủ quyền biển, đảo với Trung Quốc, Indonexia, Philippin, Brunay, Malaixia, và Đài Loan. Tuy nhiên, các đối tượng chưa thật sự nhận thức tốt về vấn đề này.
Đa số các đối tượng chỉ nhận biết được tranh chấp của Việt Nam với Trung Quốc. Tranh chấp về chủ quyền biển, đảo của VIệt Nam với các nước khác chưa được chú ý lắm. Đặc biệt, có rất ít người biết rằng Việt Nam có tranh chấp về chủ quyền biển, đảo với Brunay. Tranh chấp với Philippin được các đối tượng biết đến nhiều thứ hai (sau Trung Quốc) nhưng cũng chỉ có chưa đến 1/3 tổng số người được hỏi biết đến. Nhóm sinh viên nhận biết tốt nhất về vấn đề này. Bên cạnh đó, còn không ít các ý kiến không chính xác khi cho rằng Việt Nam có tranh chấp chủ quyền biển với các nước như Xingapo, Campuchia, Thái Lan, và một số nước khác.
Tìm hiểu thêm về nhận thức đối với quy mô và mức độ tranh chấp, các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy dường như các đối tượng khảo sát chỉ nắm thông tin tương đối tốt về tranh chấp chủ quyền biển, đảo của Việt Nam với Trung Quốc. Các đối tượng cũng đánh giá về mức độ tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc là nghiêm trọng. Có tới hơn 90% cho rằng “rất gay gắt” và “gay gắt”. Trong số đó, những người đưa ra đánh giá ở mức độ “rất gay gắt” chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm sinh viên (66,1%), tiếp đó là nhóm dân thường (62,9%) và nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý (55,8%).
2. Nhận thức về nguy cơ chiến tranh liên quan đến biển, đảo
Tìm hiểu nhận thức về các nguy cơ chiến tranh liên quan đến biển, đảo (bao gồm cả nguy cơ dùng vũ lực hoặc không dùng vũ lực để lấn chiếm và xác định chủ quyền quốc gia và vùng lãnh thổ đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam), cho thấy mối lo ngại chủ yếu tập trung vào quan hệ tranh chấp với Trung Quốc, có tới gần ¾ số người cho rằng có khả năng xảy ra nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc trong tranh chấp về chủ quyền biển, đảo. Chỉ có khoảng 10% số người có ý kiến nhận định có khả năng diễn ra tình huống này với các nước khác. Có khoảng 1/3 - ½ số người cho rằng không thể có khả năng xảy ra chiến tranh, sử dụng vũ lực giữa Việt Nam với các nước khác (trừ Trung Quốc) trong tranh chấp về khẳng định chủ quyền đối với biển, đảo.
Số liệu khảo sát cho thấy: 74,7% ý kiến của nhóm sinh viên cho rằng “có khả năng” diễn ran nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc về tranh chấp chủ quyền biển, đảo với Việt Nam; nhóm cán bộ là 70%; nhóm dân thường là 73,3%. Mặc dù sự khác biệt về ý kiến của nhóm cán bộ lãn đạo, quản lý với hai nhóm còn lại là không lớn, nhưng đây là nội dung đáng suy ngẫm, và cần có thêm bằng chứng để nhận định về sự tỉnh táo trong phân tích và nhận định tình hình chính trị của nhóm cán bộ lãnh đạo ở địa phương.
Về nguy cơ hiện nay đối với vùng biển, đảo của Việt Nam, đề tài đưa ra 6 nguy cơ và yêu cầu người trả lời lựa chọn 3 nguy cơ nghiêm trọng nhất. Kết quả cho thấy các đối tượng đánh giá về 3 nguy cơ nghiệm trọng nhất có thể diễn ra là: “Tàu đánh cá của ngư dân bị bắt bớ vô lý khi đang khai thác tại địa phận của Việt Nam” (62,2%); “Nguy cơ chiến tranh để xâm chiếm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam” (55,8%); và “ Tàu đánh bắt nước ngoài khai thác trái phép trên địa phận biển, đảo của Việt Nam” (54,7%).
Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác biệt nhất định trong đánh giá, thể hiện sự quan tâm mang tính đặc thù của mỗi nhóm đối tượng về những nguy cơ này. Trong khi nhóm dân thường thể hiện sự lo lắng nhiều hơn đối với các vấn đề liên quan đến khai thác kinh tế biển, thì nhóm sinh viên lại quan tâm nhiều hơn đến nguy cơ chiến tranh trong tranh chấp chủ quyền biển, đảo. Đây là điều tương đối hợp lý bởi các hiện tượng như “Tàu đánh cá của ngư dân bị bắt bớ vô lý khi đang khai thác tại địa phận của Việt Nam”, và “Tàu đánh bắt nước ngoài khai thác trái phép trên địa phận biển đảo của Việt Nam” đều đã diễn ra trong thực tế. Lo ngại của người dân, nhất là những người có hoạt động kinh tế trực tiếp trên biển về những nguy cơ này là có cơ sở thực tiễn. Nhóm sinh viên quan tâm nhiều hơn đến nguy cơ chiến tranh cũng là có cơ sở thực tiễn lịch sử.
Về ảnh hưởng của một số vấn đề tới chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, đề tài đưa ra một số vấn đề và sự kiện diễn ra trong thời gian gần đây: 1) Lập luận của Trung Quốc về tuyên bố “Đường lưỡi bò” (đường gãy khúc 9 đoạn); 2) Sự lỏng lẻo trong việc thi hành các điều khoản của bản “Tuyên bố về quy tắc ứng xử trên biển Đông”; 3) Sức ép của Trung Quốc đối với các công ty nước ngoài có ý định hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam; 4) Việc Trung Quốc diễn tập quân sự trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam; 5) Các hợp tác chống cướp biển và cứu hộ, cứu nạn.
Theo đánh giá của các đối tượng được khảo sát, vấn đề gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là lập luận của Trung Quốc về tuyên bố “Đường lưỡi bò” và việc Trung Quốc diễn tập quân sự trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Có tới 61,4% và 60,6% số ý kiến bày tỏ lo ngại về tác động nghiêm trọng của những sự kiện này.
Đánh giá về các nguy cơ hiện nay đối với vùng biển, đảo của Việt Nam Đơn vị: %
Nhóm đối tượng | Chung | |||
Sinh viên | Cán bộ | Nhân dân | ||
- Tàu đánh bắt cá nước ngoài khai thác trái phép trên địa phận biển, đảo của Việt Nam. - Tàu đánh cá của ngư dân bị bắt bớ vô lý khi đang khai thác tại địa phận của Việt Nam. - Nước ngoài xâm phạm địa phận và diễn tập quân sự trong vùng đặc quyền của Việt Nam. - Nước ngoài gây sức ép đối với các công ty nước ngoài có ý định hợp tác khai thác biển, đảo với Việt Nam (thí dụ trong thăm dò, khai thác dầu khí). - Hạn chế trong hợp tác quốc tế về chống cướp biển, cứu hộ người bị nạn. - Nguy cơ chiến tranh để xâm chiếm chu quyền biển, đảo của Việt Nam. | 40.4 52.7 52.8 47.3 16.8 64.3 | 58.4 65.7 44.8 39.6 12.6 56.2 | 70.9 71.3 36.5 20.1 10.7 41.9 | 54.7 62.2 45.8 37.8 13.7 55.8 |
3. Nhận thức về vai trò của kinh tế với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Về vai trò của kinh tế biển đối với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhóm nghiên cứu đưa ra câu hỏi về một số hoạt động cụ thể, gồm: hợp tác trong khai thác dầu khí, đầu tư cho đánh bắt xa bờ, mở rộng các tuyến hàng hải, xây dựng các khu kinh tế và khu công nghiệp, phát triển du lịch biển, phái triển kinh tế hải đảo, xây dựng cảng biển, hiện đại hóa các lực lượng an ninh, quốc phòng. Đa số các ý kiến đánh giá vai trò của các hoạt động này là “rất quan trọng” và “khá quan trọng”. Số người cho rằng các hoạt động đó “không quan trọng” chỉ chiếm dưới 7%.
Các đối tượng đánh giá rất cao vai trò của hoạt động kinh tế nhằm hiện đại hóa các lực lượng an ninh, quốc phòng đối với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo, với gần 85% số ý kiến cho rằng đây là hoạt động “rất quan trọng”. Hoạt động hợp tác trong khai thác dầu khí cũng được phần lớn các ý kiến đánh giá là “rất quan trọng”. Các hoạt động kinh tế khác cũng được khoảng ½ cho là “rất quan trọng”.
Có sự khác biệt nhất định giữa nhận định của hai nhóm đối tượng đối với vai trò hoạt động kinh tế biển trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tỷ lệ đánh giá vai trò của các hoạt động kinh tế là “rất quan trọng” ở nhóm cán bộ cao hơn sinh viên. Những chỉ báo này phản ánh sự quan tâm nhiều hơn của nhóm đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý địa phương đối với các hoạt động phát triển kinh tế, và ý thức rõ rệt hơn về vai trò của sức mạnh kinh tế đối với sức mạnh quân sự và chính trị của đất nước.
(Tỷ lệ đánh giá vai trò của các hoạt động kinh tế biển là “rất quan trọng” đối với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.)
4. Nhận thức về các phương pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền
Với câu hỏi: “Theo đồng chí/anh/chị, chúng ra cần chú trọng sử dụng các biện pháp nào sau đây để đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo?”, các nhóm đối tượng đã đưa ra những ý kiến khá khác nhau về ưu tiên sử dụng các biện pháp đấu tranh.
Xét trên tổng thể, các nhóm đối tượng đều nghiêng về các biện pháp đấu tranh chính thống bằng quân sự và ngoại giao nhà nước, trong khi ít chú trọng hơn đến các biện pháp khác như ngoại giao học thuật, ngoại giao nhân dân, và các hình thức đấu tranh của quần chúng. Tỷ lệ ý kiến cho rằng rất cần chú trọng các biện pháp đấu tranh quân sự và ngoại giao nhà nước lớn hơn khoảng hai lần so với ý kiến chú trọng các biện pháp đấu tranh còn lại (Biểu đồ 2). Số người đồng ý với phương án cần sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh trong bảo về chủ quyền của đất nước không cao.
Trong thực tế, việc sử dụng một cách mềm dẻo và linh hoạt các biện pháp đấu tranh phi chính thức và phi quân sự nhằm bảo vệ chủ quyền của đất nước đôi khi còn mang lại hiệu quả cao hơn việc sử dụng các biện pháp chính thống khác. Việc không coi trọng sử dụng các biện pháp đất tranh phi chính thức và phi quân sự của các nhóm đối tượng rất cần được xem xét và phân tích thấu đáo. Một trong những nguyên nhân của thái độ như vậy có lẽ do hiệu quả của các biện pháp đấu tranh đó chưa được nhiều người biết đến. Đây là điều cần lưu ý trong tuyên truyền vận động về vấn đề này trong thời gian tới.
Các nhóm đối tượng sinh viên và cán bộ có quan điểm khác nhau về các biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền của đất nước. Chẳng hạn, nhóm sinh viên có xu hướng chú trọng sử dụng các biện pháp đấu tranh bằng quân sự, trong khi đó, nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý lại có cách nhìn linh hoạt hơn về vấn đề này. Đối với tất cả các biện pháp đấu tranh phi quân sự, tỷ lệ ủng hộ của nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý đều cao hơn so với sinh viên.
Kết quả khảo sát cho thấy có tỷ lệ cao hơn một cách đáng kể trong số cán bộ lãnh đạo, quản lý so với số sinh viên ủng hộ việc chú trọng các biện pháp ngoại giao nhà nước (83,1% so với 66,2%). Tỷ lệ cách biệt cũng lên tới gần 10% trong quan điểm của hai nhóm đối tượng này đối với việc chú trọng sử dụng các biện pháp của giới khoa học và học thuật, hay các hình thức ngoại giao nhân dân.
(Tỷ lệ đánh giá “rất cần” chú trọng các biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền)
Như vậy, nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng khảo sát đối với việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia là không đồng nhất. Nhìn chung, phần lớn s kiến đều nhận thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc, trong khi rất ít người chú trọng đến quan hệ giữa Việt Nam và các nước khác cùng có tranh chấp chủ quyền biển, đảo. Nhóm sinh viên có mức độ đánh giá cao hơn hẳn so với nhóm cán bộ, quản lý và nhóm dân thường về các nguy cơ có thể xảy ra trên Biển Đông, đặc biệt là nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc. Nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các địa phương thể hiện sự quan tâm nhiều hơn tới các hoạt động phát triển kinh tế, và ý thức rõ hơn các nhóm khác về vai trò của sức mạnh kinh tế đối với sức mạnh quân sự và chính trị của đất nước.
Về các phương pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhóm sinh viên quan tâm nhiều đến việc sử dụng các biện pháp đấu tranh bằng quân sự, trong khi nhóm cán bộ ít chú ý hơn đến biện pháp này. Bên cạnh đó, các biện pháp phi chính thức và phi quân sự như ngoại giao học thuật, ngoại giao nhân dân, và các phong trào đấu tranh của quần chúng… cũng ít được quan tâm. Cả ba nhóm đối tượng nghiên cứu đều ít chú ý đến việc sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền của đất nước. Do vậy, trong công tác tuyên truyền vận động về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước thời gian tới, cần chú ý đến các đặc thù nhóm để có thể phát huy tối đa sức mạnh tổng thể, đồng thời tận dụng ưu thế và sự quan tâm của từng nhóm nhằm đạt được hiệu quả đấu tranh trên lĩnh vực đang rất nóng bỏng trong đời sống chính trị của khu vực và thế giới.








