Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 26/09/2013 21:20 (GMT+7)

Nhân quyền học – nhân diện và cách tiếp cận

1. Nhận diện từ các mực độ nghiên cứu về quyền con người ở nước ta hiện nay.

Hiện trạng của tình hình nghiên cứu khoa học về quyền con người ở nước ta hiện nay có thể khái quát bằng một nhận xét như sau:

Dưới sự chỉ đạo và lãnh đạo của Đảng cầm quyền, hàng trăm tác giả Việt Nam đã công bố những sản phẩm nghiên cứu của mình về quyền con người, làm tăng nhanh chóng kho tàng tri thức về quyền con người ở Việt Nam và đặc biệt là làm xuất hiện hai mức độ nghiên cứu khoa học rất có ý nghĩa đối với việc phát triển khoa học pháp lý Việt Nam

Mức độ thứ nhất, mức độ đạt được của đại đa số các công trình nghiên cứu đã công bố. Đó là mức độ nghiên cứu thực tế -kinh nghiệm.

Sở dĩ có thể nói được về hai mức độ là vì lịch sử phát triển của khoa học trong xã hội loài người đã chỉ ra rằng, khoa học với tính cách là một hệ thống tri thức về quy luật vận động của một khách thể nào đó, chỉ có thể tiến đến hoàn chỉnh khi biết kế hợp với triết học và mặt khác với thực tiễn 1. Đại đa số các bài viết của các tác giả Việt Nam đã được thực hiện trên cơ sở nhận thức thực tế, tức là trên cơ sở thực tế các quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong các văn kiện mang tính chất pháp lý, từ Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, các Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội vằ văn hóa đến các Nghị định thư kèm theo, và một hiện thực khác nữa là quá trình nội luật hóa các cam kết của quốc gia đối với các quyền con người đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế.

Không thể phủ nhận được giá trị to lớn của mức độ nghiên cứu thực tế, vì nó đã cung cấp cho xã hội Việt nam một lượng thông tin đầy đủ và hệ thống về các quyền con người, để trên cơ sở đó nhận thức, xây dựng những bảo đảm cho sự tôn trọng, thực hiện và phát triển quyền con người, chống lại những khuynh hướng, những hành vi xâm phạm quyền con người trên thế giới và trên lãnh thổ nước ta.

Mức độ thứ hai của công trình nghiên cứu về quyền con người đã được công bố ở Việt Nam, tuy còn ít, song cũng đã xuất hiện và rất được mong đợi. Đó là mức độ kết hợp cả thực tế hiện thực và triết học. Mức độ này, nói theo Đạo phật, là mức độ “giác ngộ” và nói theo Ăng ghen, là mức độ hoàn chỉnh.

Mức độ thứ hai khác mức độ thứ nhất ở chỗ, người nghiên cứu đã vận dụng cả tri thức triết học để nhận thức những quy luật, bản chất của quyền con người, tức là ( nói theo C.Mác) nhận thức được “ bản chất pháp lý của sự vật”. Vì chỉ trên cơ sở đó, trình độ đó, mới có thể nhận thức đúng, định nghĩa đúng về quyền con người, cái mà các chính khách tham gia xây dưng bản Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 cũng không có chủ trương xây dựng, vì để bảo đảm có được sự đồng thuận cao của cộng đồng quốc tế, chứ không phải vì sự phức tạp, khó khăn không thể định nghĩa được về mặt khoa học như một Luận án Tiến sỹ Luật học về nhân quyền ở Việt Nam ngày nay còn ngộ nhận 2.

Như vậy, ở mức độ thứ hai của các công trình nghiên cứu về quyền con người phải đạt được sự “ giác ngộ” về bản chất ( triết học) của quyền con người, phải xác định được khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu… tức là tiến hành nghiên cứu trên cơ sở nhận thức được Nhân quyền học 3.

Phải trên cơ sở đó để nghiên cứu quyền con người thì mới có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng xã hội Việt Nam đạt mục đích mà Đảng ta đã đề ra:” Xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh 4.

Vì mục tiêu chiến lược đó, môi công trình nghiên cứu, mỗi lịch vực nghiên cứu hay mỗi chuyên ngành khoa học phải đặt đến mức độ “giác ngộ” như đã nói. Nếu không, tức là nếu chỉ dừng ở mức độ thứ nhất thì khó phân biệt được đúng, sai, không biết đâu là quy luật, đâu chỉ là mặt biểu hiện bên ngoài 5.

Đòi hỏi đạt đến trình độ “giác ngộ” về quyền con người trước hết phải được đặt ra đối với các chủ thể nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người ở nước ta và trên bình diện một quốc gia, thì trình độ này phải bằng mọi cách để nó xuất hiện.

Lấy bản Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 làm ví dụ minh họa cho sự cần thiết phải nâng cao trình độ nhận thức về quyền con người. Văn bản này có hai phần rõ rệt: một phần ghi nhận những quy luật khách quan, những cái phải trải qua đấu tranh gian khổ trong suốt chiều dài lịch sử cho đến năm 1948 lời người mới đồng tâm khái quát được, và một phần khác ghi nhận các quyền con người cụ thể. Hai phần này có quan hệ biện chứng với nhau. Nếu ý thức được phần ghi nhận về quy luật, thì phần triển khai thực hiện các quyền con người cụ thể sẽ tránh được gò bó, hình thức, tức là thấy rõ giá trị và có được động lực của việc thực hiện. Thế nhưng rất tiếc, bản dịch tiếng việt lại biến tất cả quy luật đã được khái quát hóa ở tầm quốc tế thành những nhận thức chủ quan, tức là đã biến cái khách quan thành cái chủ quan một cách rất đơn giản ( tôi cho là vô ý thức), chỉ bằng thao tác thay từ nguyên bản “vì rằng” thành “xét rằng”…

Tóm lại, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, dù việc nghiên cứu được tiến hành ở lĩnh vực nào (dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội hay văn hóa), thì quyền con người cũng phải được tiếp thu, nhận thức, nghiên cứu, giảng dạy và phát triển trên cơ sở của hai bộ phận không tách với nhau của nó ( quyền con người).

Bộ phận thứ nhất:Đó là bản chất và các quy luật

- Về bản chất của quyền con người

Trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu về quyền con người nói riêng, việc nhận thức đúng bản chất của vấn đề được nghiên cứu phải được đặt ra đầu tiên. Nghiên cứu quyền con người mà bản thân người nghiên cứu không biết hoặc không muốn biết quyền con người là gì (giá trị, khả năng, nhu cầu, lợi ích hay là tiêu chí để đánh giá…) thì tự chuốc lấy rủi ro và gây rủi ro cho xã hội.

Vì thế, khi phải đề cập vấn đề quyền con người, tôi đã thực hiện một nghiên cứu khái quát trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế và kết quả đã đưa đến nhận thức rằng, tuy “ Bộ luật nhân quyền quốc tế “ không chính thức đưa ra lời định nghĩa nhân quyền là gì, song những văn bản chính trị pháp lý đó đã được xây dựng trên nền tảng cảu một hệ thống tri thức ưu việt về nhân quyền, tức là nhìn thấy bản chất cũng như những quy luật vận động của vấn đề nhân quyền trong đời sống thực tế của nhân loại. Từ đó, tôi đã đưa ra sự khẳng định rằng, quyền con người, về bản chất, chính là nhu cầu của con người và định nghĩa khái niệm như sau:

“Với tính cách là một thuật ngữ pháp lý, quyền con người được hiểu là nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người, được xã hội thừa nhận và pháp luật ghi nhận” 7

Trong định nghĩa này, nhu cầu của con người là bản chất đồng thời cũng là ngoại diên gần hơn cả của khái niệm quyền con người. Còn các đặc điểm:” cần thiết, chính đáng và phổ biến, được xã hội thừa nhận và pháp luật ghi nhận” là nhưng đặc điểm khác biệt, tức là nội hàm của ngoại diên. Nhu cầu của con người, đó là “bản chất pháp lý của sự vật” mà pháp luật về quyền con người phải phù hợp với nó 8.

- Về các quy luật và các mối liên hệ của quyền con người.

Lịch sử đấu tranh lâu dài của loại người tiến bộ vì tự do, bình đẳng và bác ái, vì công lý và hòa bình trên trái đất, đã mang lại thành tựu rực rỡ được thể hiện cụ thể bằng “Bộ luật nhân quyền quốc tế”, cái mà đến lượt nó cũng thường xuyên được bổ sung và hoàn chỉnh theo thời gian từ khi xuất hiện cho đến này 9. Và ngày nay, về mặt khoa học và thực đế đào tạo ở nước ta 10, đã cho phép nói đến một chuyên ngành khoa học pháp lý mới. Đó là Nhân quyền học hay khoa học về quyền con người.

Với nhận thức chung, khoa học là một hệ thống tri thức về các quy luật vận động của một khách thể nào đó và phải đáp ứng được các tiêu chí của một khoa học đối lập, tức là phải có khách thể nghiên cứu riêng, đối tượng nghiên cứu riêng, mục đích nghiên cứu riêng… 11, thì Nhân quyền học rõ ràng đã đáp ứng được các tiêu chuẩn phổ quát đó.

Bằng việc xác định bản chất pháp lý của quyền con người là nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người, thì đồng thời khách thể nghiên cứu của Nhân quyền học cũng sáng tỏ. Đó là tình hình thực hiện quyền con người về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội ở một quốc gia. Hay nói khác đi, khách thể nghiên cứu của Nhân quyền học là tình hình xử lý và đối xử của Nhà nước đối với nhu cầu của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, dân sự đến kinh tế, văn hóa - xã hội. Phải thông qua việc nghiên cứu tình hình chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa ở tùng nơi, theo từng thời gian nhất định, thì mới có thể kiệm nghiệm được mức độ thực hiện quyền con người, tức là mức độ giải quyết và thỏa mãn nhưng nhu cầu về sống, chết, ăn, ở, đi lại, làm việc, học tập, chữa trị bệnh tật… những nhu cầu về tự do, bình đẳng, an toàn, an ninh cá nhân…

Những tình hình đã nêu vận động trên cơ sở của nhiều loại quy luật, trong đó có quy luật về sự thực hiện quyền con người. Những nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người được giải quyết và thỏa mãn tốt bao nhiêu thì tình hình chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa sẽ tốt bấy nhiêu. Đây chính là quan điểm phát triển dựa trên quyền con người.

Nói cách khác, nhưng nhu cầu đã được nghi nhận thành quyền của con người được nảy sinh và vận hành như thế nào, có mỗi liên hệ gì với sự phát triển của bản thân con người và của toàn xã hội, có tác động tốt, xấu như thế nào đối với vấn đề an ninh, trật tự xã hội, cũng như đối với vấn đề công lý và hòa bình, ổn định trên phạm vi quốc gia và quốc tế… Đây rõ ràng là những quy luật và các mối quan hệ nhân quả mà Nhân quyền học phải quan tâm. Nói cách khác, Nhân quyền học có đối tượng nghiên cứu là những quy luật phát sinh và vận động của nhu cầu của con người, những mối liên hệ nhân quả giữa sự thoả mãn các nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người với sụ phát triển chung của toàn xã hội trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, với những giá trị phổ quát mà toàn nhân loại cùng hướng tới.

Tiếp cận bằng phương pháp hệ thống, đối tượng nghiên cứu của các khoa học nói chung và của Nhân quyền học nói riêng, chỉ có thể là quy luật và các mối liên hệ nhân quả. Và nếu quy tất cả các mối liên hệ nhân quả, thì quyền con người với tính cách là nhu cầu cầu của con người, có mối liên hệ bên trong của bản thân nhu cầu và có mối liên hệ bên ngoài, tức là mối liên hệ giữa sự tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm cho các nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người được giải quyết và thỏa mãn với các giá trị, mục tiêu phổ quát khác mà loài người hướng tới – tự do, công lý, hòa bình trên toàn thế giới.

Những mối liên hệ bên ngoài đặc biệt quan trọng này đã được nghi nhận ngay tại Lời nói đầu của bản Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 bằng bảy câu có cấu trúc giống nhau, đều bắt đầu bằng lời giải thích:”vì rằng…”

+ Cái “vì rằng” thứ nhất:” Vì rằng, sự công nhận phẩm giá bẩm sinh và sự công nhận các quyền bình đẳng và các quyền không thể tước đoạt của tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”.

+ Cái “vì rằng” thứ hai: “Vì rằng, sự không công nhận và xem thường quyền con người đã dẫn đến những hành động man rợ, những cái xúc phạm đế lương tri nhân loại, và vì rằng, một thế giới trong đó tất cả mọi người đều được hưởng tự do ngôn luân, tự do tín ngưỡng, không còn sợ hãi và đói nghèo, đã được tuyên xưng là ước vọng cao nhất của con người”.

+ Cái “vì rằng” thứ ba: “ Vì rằng, quyền con người cần phải được bảo vệ bằng pháp luật, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức”.

Sở dĩ phải chép lại ba cái “vì rằng…” đầu tiên của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 như vậy để chứng minh hai điều hệ trọng:

MỘt là, bản dịch tiếng Việt đã vô tình làm giảm giá trị khoa học của bản Tuyên ngôn quốc tế.

Hai là, Nhân quyền học có đối tượng nghiên cứu là cả mối liên hệ nhân quả bên trong và cả mối liên hệ bên ngoài của nhu cầu của con người với khách thể nghiên cứu, tức là nhu cầu của con người với tình hình chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa trên phạm vi quốc gia và quốc tế.

Phải trên cơ sở nghiên cứu cả hai hướng đó, các mối liên hệ nhân quả bên trong và bên ngoài nhu cầu của con người, Nhân quyền học mới có đủ thông tin làm cơ sở cho việc quy phạm hóa, một là để hoàn thiện những điều đã quy định trong pháp luật quốc tế và quốc gia về một nhu cầu nào đó của con người, hoặc hai là để ghi nhận thêm một nhu cầu mới thành quyền con người.

Khái quát lại, Nhân quyền học có mục đích quy phạm hóa. Và như vậy, cả ba tiêu chí cơ bản nhất của một khoa học đã được làm sáng tỏ về cơ bản. Từ đó cho phép định nghĩa: Nhân quyền học là một khoa học pháp lý vị quy phạm, nghiên cứu khách thể của mình là tình hình chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa ở mỗi quốc gia để xác định các nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người, nhằm quy phạm hóa các nhu cầu đó thành quyền con người trên phạm vi quốc gia và quốc tế, cũng như thúc đẩy việc triển khai thực hiện các quyền con người trên thực tế.

Bộ phận thứ hai:Các quyền con người cụ thể.

Vì quyền con người có tính phổ biến (Egalitaet – Universalitaet), nên hình thức văn bản phù hợp nhất với tính chất đó phải là hình thức văn bản có hiệu lực quốc tế.

Cái logic của sự vật quy định như vậy và loài người, dù phải trải qua bao thăng trầm và hoa tổn cả máu xương, nhưng cuối cùng cũng đã hành động theo quy luật đó. Bộ Luật quốc tế về quyền con người (International Bill of Human Rights) đã được ra đời vào thế ký XX và vẫn đang tiếp tục được bổ sung các quyền mới của con người. Ngày nay, người ta nói đến thế hệ thứ ba của quyền con người cũng là nói theo quy luật này, tức là nhu cầu cảu con người, một phạm trù tâm – sinh lý – xã hội, được nảy sinh cùng sự xuất hiện của con người và không ngừng vận động và phát triển theo quá trình xã hội hóa cá nhân trong sự vận động của môi trường sống, trong sự phát triển của môi trường xã hội, nên sự ghi nhận những nhu cầu của con người thành các quyền cụ thể cũng càng ngày càng tăng thêm về số lượng, đa dạng hơn về chủng loại và hoàn thiện hơn về nội dung.

Cùng ở tầm nhận thức toàn cầu, bên cạnh tính phổ biến, quyền con người còn mang trong mình tính chất chỉnh thế, thống nhất mà nhiều tài liệu quốc tế và quốc gia gọi là tính chất không thể phân chia (Unteilbarkeit). Điều này là chân lý, là quy luật vì nó phù hợp với bản tính tự nhiên vốn có của quyền con người. Thế nhưng trên thực tế, để nhận thức, để xây dựng pháp luật, để nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, đào tạo và kể cả thực hiện, quyền con người vẫn phải được phân chia. Và thực tế, gần hai mươi năm sau bản Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người, năm nhóm quyền chính thức đã được ghi nhận với một danh mục các quyền cụ thể, mà trong đó còn có những tiểu nhóm quyền cần phải được nhận diện để nghiên cứu tiếp tục và sâu hơn, chẳng hạn như tiểu nhóm quyền về mặt tư pháp hình sự. Về tiểu nhóm quyền này đang có sự ngộ nhận ở nước ta, song nó đã được để cập trong một bài viết khác. Vì thế ở đây xin phép không đi sâu.

2. Nhân quyền học và các khoa học pháp lý khác.

Trong mối liên hệ với các khoa học pháp lý khác. Nhân quyền học giữ vai trò của một khoa học pháp lý bao trùm. sự bao trùm của Nhân quyền học không chỉ đối với một chuyên ngành nào như Tội phạm học chẳng hạn, mà còn đối với tất cả các khoa học pháp lý khác, kể cả khoa học pháp lý vị quy phạm, khoa học pháp lý phi quy phạm, khoa học luật hiến pháp (Hiến pháp học). Cái nghĩa bao trùm ở đây không chỉ giới hạn ở một tiêu chí nào của một khoa học (chuyên ngành) độc lập, mà nó “phủ bóng” đối với tất cả các tiêu chí, từ mục đích nghiên cứu của khoa học đó, đến khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi áp dụng…

Trong hệ thống các khoa học pháp lý, Nhân quyền học xứng đáng là “khoa học mẹ”, một khoa học có đối tượng nghiên cứu (các quy luật và các mối liên hệ nhân – quả của khách thể nghiên cứu với các hiện tượng và các quá trình kinh tế - xã hội khác) không chỉ chi phối sự phát triển của các khoa học pháp lý khác, mà còn chi phối sâu sắc sự phát triển của xã hội nói chung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội – đây mới đích thực là quan điểm phát triển dựa trên quyền (quyền con người).

1:C.Mác và Ph. Ăng –ghen, toàn tập, tập 1, nxb Chính trị quốc gia, 1995,tr.827

2: xem: Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Quang Hiền, Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam,4/2008.

: Phạm văn Tỉnh, Quyền con người – bản chất và cách tiếp cận khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2010, tr.60-64

4: Đảng cộng sản Việt nam, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia 2011, tr.70

5: Ý tưởng được rút ra từ việc đọc V.I.Lê – Nin, Tuyển tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, 2007, tr.109-219

7: Phạm văn Tỉnh, Quyền con người – bản chất và cách tiếp cận khoa học pháp lý, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2010, tr 60-65

8: xem : C.Mác và Ph.Ăng – ghen toàn tập, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, 4/1995, tr 178

9: Ngày 28/7/2010, Liên hợp quốc đã tuyên bố trong một Nghị quyết dân sự không bắt buộc về nhu cầu có nước sạch là quyền con người

10: xem : Cao Đức Thái, Quyền con người trong thời kỳ đổi mới – mấy vấn đề nhận thức lý luận và thực tiễn, trong cuốn Quyền con người – tiếp cận đa ngàng và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, 2009, tr 15-36

11: xem thêm: Phạm Văn Tỉnh, Khoa học pháp lý và yêu cầu nâng cao trình độ lý luận theo Nghị quyết XI của Đảng, ký yếu hội thảo do Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức ngày 17 tháng 6 năm 2011.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất về cơ cấu, số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
Ngày 4/12, tại Hà Nội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thảo luận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI.
Triển khai thực hiện các văn bản mới của Trung ương về về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Chiều 4/12 tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiêp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai Quy định 367-QĐ/TW và Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
Phổ biến những điểm mới các Luật, Nghị định
Sáng 4/12/2025, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo Phổ biến các văn bản tới các Hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và Tổ chức khoa học và công nghệ. Đây là hoạt động thường niên của Liên hiệp Hội Việt Nam nhằm cập nhật thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trong cùng hệ thống.
Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ trồng cây lâm nghiệp cảnh quan và Phát triển nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai
Ngày 01/12/2025, tại tỉnh Gia Lai, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai và tổ chức Face the Future (Hà Lan) tổ chức Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ Trồng cây Lâm nghiệp Cảnh quan và Phát triển Nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai (GLAD).
AI - Đạo đức và an toàn trong kỷ nguyên mới
Chiều 2/12 tại Hà Nội, mở đầu chuỗi tọa đàm “Khoa học vì cuộc sống” của Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2025 đã diễn ra buổi tọa đàm với chủ đề: “Trí tuệ nhân tạo (AI) vì nhân loại - Đạo đức và an toàn AI trong kỷ nguyên mới”. với thông điệp “Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng” tiếp tục truyền cảm hứng đổi mới vì con người.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chúc mừng 50 năm Quốc khánh nước CHDCND Lào
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và 105 năm ngày sinh Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản, thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bà Bùi Thị Minh Hoài - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã gửi thư chúc mừng.