Nguyên Thứ trưởng “phê bình sách mà không cần đọc sách”?
Từ hơn một tháng nay, theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT), các sở GD&ĐT trong cả nước đang tổ chức lấy ý kiến GV, HS và cha mẹ HS về ưu điểm, hạn chế của chương trình (CT), sách giáo khoa (SGK) phổ thông và đề xuất kiến nghị hoàn thiện CT, SGK. Một số cơ quan, tổ chức được mời tham gia và một số vị lãnh đạo tiền nhiệm của Bộ GD&ĐT cũng lên tiếng về công việc này.
Đọc bài trả lời phỏng vấn của PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, nguyên Trưởng ban Soạn thảo CT tiểu học năm 2000 trên VietNamNet ngày 22 tháng 4 vừa qua, tôi rất đồng tình với nhận xét của ông là việc đánh giá CT, SGK tiến hành quá gấp, khó thu được kết quả chính xác và hữu ích. Tuy nhiên, tôi cũng xin đính chính một số chi tiết được ông Trần Xuân Nhĩ nêu trong bài báo nói trên để bạn đọc hiểu đúng hơn, từ đó có sự nhìn nhận công bằng hơn về CT và SGK tiểu học.
Trong bài trả lời VietNamNet, ông Trần Xuân Nhĩ có nêu dẫn chứng: Trong một năm học, HS lớp 1 phải học tới 1.500 trang SGK. Tôi e rằng vị cựu Trưởng ban Soạn thảo CT tiểu học năm 2000 quên mất là ở lớp 1, chỉ 3 môn Tiếng Việt, Toán, Tự nhiên & Xã hội có SGK, tổng số trang SGK của cả ba môn này là 591 trang, trong đó tranh minh hoạ chiếm tới 80 - 90% diện tích mỗi trang. Các môn học khác (được gọi là các hoạt động giáo dục) không có SGK cho HS mà chỉ có sách hướng dẫn GV. Vậy thì lấy đâu ra con số 1.500 trang nói trong bài báo?
Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại rằng năm 1996, khi được Bộ GD&ĐT mời tham gia thẩm định CT tiểu học mới, tôi có gửi ông Trần Xuân Nhĩ, lúc đó là Thứ trưởng, Trưởng ban Soạn thảo CT tiểu học năm 2000, một bức thư nhận xét rằng, CT tiểu học có quá nhiều môn học, nên tích hợp lại cho bớt số môn học và giờ học (ví dụ, tích hợp các môn Đạo đức, Tự nhiên & Xã hội, Khoa học, Lịch sử & Địa lí với môn Tiếng Việt). Ý kiến này, tôi cũng phát biểu tại một số hội nghị của Bộ lúc đó. Nhưng đề nghị của tôi đã không được trả lời. Mãi đến tháng 9/2007, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh Mai mới có công văn số 9890/BGD ĐT-GDTH hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho HS có hoàn cảnh khó khăn. Theo công văn này, đối với HS người dân tộc thiểu số chưa thạo tiếng Việt, HS vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo và một số đối tượng có khó khăn khác, ở tiểu học, chỉ dạy các môn Tiếng Việt và Toán; còn các môn Tự nhiên & Xã hội, Khoa học, Lịch sử & Địa lí dạy như dạy tập đọc để phát triển kĩ năng tiếng Việt. Giá như hồi mới thẩm định CT, lãnh đạo Bộ nghe ý kiến chúng tôi thì bây giờ không phải kể câu chuyện tưởng tượng “1.500 trang sách cho HS lớp 1” nữa.
Để chứng minh SGK quá tải, ông Trần Xuân Nhĩ còn nói SGK Tiếng Việt 2 có tới 30 “ bài thơ ngụ ngôn của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới”. Là chủ biên của quyển sách này, tôi xin khẳng định cả hai tập SGK Tiếng Việt 2 chỉ dạy 16 bài văn vần, trong đó có 1 bài vè dân gian và 14 bài thơ của các nhà thơ Việt Nam hiện đại như Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Tú Mỡ, Phạm Hổ, Thanh Hải, Bế Kiến Quốc, Trần Đăng Khoa v.v... Những lời thơ đằm thắm, giản dị và có tính giáo dục cao như: Ai yêu các nhi đồng / Bằng Bác Hồ Chí Minh? / Tính các cháu ngoan ngoãn / Mặt các cháu xinh xinh / Mong các cháu cố gắng / Thi đua học và hành / Tuổi nhỏ làm việc nhỏ / Tuỳ theo sức của mình... (Thơ Bác Hồ) hết sức dễ hiểu, dễ nhớ đối với trẻ học lớp 2. Còn nói về ngụ ngôn thì 2 tập SGK chỉ dạy 6 truyện, trong đó 4 truyện là của Việt Nam; chỉ có truyện Kho báu (ngụ ngôn Ê-dốp) và bài thơ Sư Tử xuất quân (La Phông-ten) là của nước ngoài. Không những nội dung tất cả 6 truyện trên đều dễ hiểu mà ý nghĩa của câu chuyện còn được chính nhân vật nói thẳng ra. Đặc biệt, có những truyện ngụ ngôn, như Sư Tử xuất quân được HS đón nhận một cách rất thích thú.
Ông Trần Xuân Nhĩ còn nói rằng trong sách Tiếng Việt 2 có bài ngụ ngôn về cây sồi. Và ông bình luận: “ Cây sồi ở Việt Nam không có, mà chỉ có ở các nước châu Âu. Chính GV cũng không hiểu cây sồi như thế nào thì HS làm sao hiểu nổi mà lại đưa chuyện ngụ ngôn đó vào dạy ở lớp 2”. Tôi thật lấy làm lạ là một nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội có tên tuổi như ông Trần Xuân Nhĩ có thể phê bình sách mà không cần đọc sách như thế. Làm gì có câu chuyện ngụ ngôn nào về cây sồi trong sách Tiếng Việt 2? Mà giả sử có một truyện ngụ ngôn như thế thì nhân vật dù là cây sồi hay cây mít, con vịt hay con gà, chúng cũng hàm chỉ con người, chứ không phải sồi vẫn là sồi, mít cứ là mít để người đọc phải tìm hiểu cái cây ấy to hay bé, rễ cọc hay rễ chùm, có quả hay không có quả, mọc ở vùng núi hay đồng bằng v.v...
Trong cả bộ SGK Tiếng Việt tiểu học chỉ có một đoạn văn miêu tả cây sồi ở lớp 4, học kỳ II, trong bài tập làm văn “Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối”. Đây là đoạn văn của Lép Tôn-xtôi tả cây sồi với những hình ảnh so sánh rất ấn tượng, được giới thiệu cùng 2 đoạn văn về cây bàng của Đoàn Giỏi, Hoàng Phủ Ngọc Tường và đoạn văn về cây tre của Bùi Ngọc Sơn. Mục đích giới thiệu các đoạn văn này là để cung cấp tư liệu cho HS tham khảo, chứ không phải để các em tả cây sồi. Còn nếu cho rằng chỉ có thể dạy HS những cái gì nước ta có, như quan niệm của ông Trần Xuân Nhĩ, thì hẳn nhà trường không bao giờ nên dạy các em lịch sử, địa lí thế giới. Thậm chí dạy các em về những giai đoạn lịch sử đã qua, dạy HS đồng bằng sông Cửu Long về cái rét, dạy HS đồng bằng Bắc Bộ về sông Cửu Long chắc cũng bị coi là quá tải(?!).
CT, SGK là kết quả lao động công phu của hàng trăm tác giả bao gồm các nhà giáo, nhà khoa học có kiến thức và kinh nghiệm, lại được sự đóng góp ý kiến của hàng nghìn lượt GV dạy thử nghiệm ở 12 tỉnh thành trong cả nước trong suốt 4 năm liền trước khi triển khai đại trà. Mặc dù vậy, thiếu sót chắc là khó tránh khỏi. Góp ý để khắc phục thiếu sót, hoàn thiện CT, SGK là rất cần thiết. Nhưng chúng tôi cũng mong công việc này được thực hiện một cách bình tĩnh, khoa học; người góp ý cần tránh đưa ra những nhận xét vội vàng, thiếu chính xác, làm dư luận hoang mang.








