Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 22/02/2010 15:41 (GMT+7)

Nguyễn Mậu Kiến - người xướng nghĩa đầu tiên trên đất Thái Bình

Phải nói rằng ngay cuộc đời yêu nước chiến đấu của Nguyễn Mậu Kiến đã được chuẩn bị rất sớm và kỹ về cả hai mặt chủ quan và khách quan. Nói riêng về mặt chủ quan thì hoàn cảnh xuất thân trong một gia đình giàu có trong vùng là một điều kiện thuận lợi cho việc chiêu mộ nghĩa quân và chi phí cho việc binh khí phát động công cuộc chống Pháp. Việc Nguyễn Mậu Kiến tiếp nối Nguyễn Công Trứ mở mang nông nghiệp, tổ chức việc đào sông dẫn nước, tiêu nước trong xã và huyện, lại cho hai con là Nguyễn Hữu Bản và Nguyễn Hữu Khái đi khai khẩn vùng biển Tiền Hải, mở xã lập ấp, đưa dân các nơi xuống cầy cấy làm ăn, ổn định đời sống cho hàng ngàn người, cũng tạo thêm uy tín cho gia đình họ Nguyễn đối với nhân dân trong vùng, để họ dễ dàng đi theo khi có lời kêu gọi kháng chiến. Nhưng trong một xã hội trọng đạo đức và nhân ái là xã hội Việt Nam thì việc Nguyễn Mậu Kiến hăng hái đứng ra quyên tiền, thóc, tổ chức việc cứu tế cho nhân dân suốt một vùng Sơn Nam (Nam Định, Thái Bình) để giải quyết nạn đói trầm trọng trong những năm 1856 – 1857, càng góp phần làm cho uy tín và danh vọng họ Nguyễn thêm lớn đối với nhân dân. Rồi trong một xã hội trọng học vấn là xã hội Việt Nam ta, việc cúng “học điền” để có hoa lợi mở trường và mời thầy dạy học cho con em trong vùng, giải quyết tình trạng chỉ có số con em các gia đình khá giả mới có điều kiện đi học, lập ra Chiêm Bái Đườngthuê thợ giỏi các nơi về khắc bản để in các loại sách quý phát không cho học trò, góp phần nâng cao giáo hoá, xây dựng thuần phong mỹ tục càng làm tăng thêm uy tín của ông và gia đình ông đối với nhân dân trong vùng. Quê hương Động Trung (nay là Vũ Trung) huyện Kiến Xương thời đó mặc nhiên đã trở thành một trong những trung tâm văn hoá của tỉnh nhà, thường được nhiều nhà văn thân sĩ phu lui tới, như Nguyễn Quang Bích (1), Doãn Khuê (2)…

Các việc làm đó làm cho mối quan hệ giữa Nguyễn Mậu Kiến với nhân dân địa phương ngày thêm thắt chặt, để đến khi có việc cần đoàn kết ứng nghĩa thì chỉ một lời kêu gọi của ông là có đông đảo người nô nức tin theo. Chứng cớ là vào những năm 1848 – 1850, mặc dù lúc này ông chỉ là một người dân thường, chưa có quan chức gì, ông vẫn có thể nhanh chóng tập hợp được đông đảo thanh niên cường tráng vào đội dân binh, rồi trực tiếp chỉ huy đánh lui các toán giặc biển khi chúng đang lăm le tràn vào dày xéo quê hương. Hay như các năm 1861 – 1862, lúc ấy ông vẫn chưa đỗ đạt gì, vẫn là người “bạch đinh” nơi thôn dã, nhưng do có uy tín lớn lao, ông đã được cử cùng một số văn thân khác đứng ra dàn xếp thành công vụ xung đột lương giáo ở địa phương và trong toàn tỉnh Nam Định (cũ) do bọn tay sai của Pháp cố tình lợi dụng đạo Thiên Chúa và chính sách “sát tả” (3) sai lầm của triều đình để gây rối hậu phương ta, dọn đường cho chúng kéo quân ra thôn tính miền Bắc. Để đến năm Mậu Thìn (1868) – lúc này ông đã đỗ giám sinh (tương đương cử nhân) năm 1863 và đỗ khoa thi hoành từ năm 1865, nhưng vẫn kiên quyết từ quan về quê với cớ phụng dưỡng mẹ già - triều đình Huế vẫn căn cứ vào tài học của ông để cử ông làm Bang biện hai tỉnh Nam Định - Hải Dương sau đó ít lâu lại được cử làm Bang biện quân thứ Lạng Sơn (1868) để chuyên lo việc đánh dẹp bọn giặc Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh từ Trung Quốc tràn sang trên biên giới phía Bắc. Rồi suốt trong nhiều năm, từ 1868 đến 1871, do công lao đánh dẹp, giữa trật tự an ninh suốt một vùng núi non hiểm trở, kéo dài từ Quảng Yên, Lạng Sơn đến Cao Bằng, ông đã lên đến chức Tuần phủ. Nhng đến năm 1873, đau lòng vì sự thối nát của vua quan triều đình trước nạn lớn của nước nhà đã không có biện pháp đối phó kịp thời và hữu hiệu, mà ngày càng đi sâu vào con đường khuất phục hàng giặc, ông đã dũng cảm dâng sớ vạch tội bọn đầu hàng giặc PHáp, và vì vậy đã bị triều đình cách chức. Nhưng là một nhà nho có quan điểm đúng đắn về “dụng, xả, hàng, tàng” (9), ông có đâu lấy việc đó làm trọng, nhìn trước bước chuyển biến gấp rút của tình hình, khi lui về quê nhà, ông đã cùng hai còn là Nguyễn Hữu Cương và Nguyễn Hữu Bản mộ quân, rèn luyện võ nghệ, sắm sanh vũ khí sẵn sàng chặn đánh giặc Pháp khi ichúng kéo ra miền Bắc.

Tình hình đã diễn ra đúng như ông dự kiến. Ngày 20 – 11 – 1873, quân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội. Trên đà thắng thế, trong vòng không đầy một tháng, chúng đưa quân lần lượt đánh chiếm các vùng đồng bằng. Ngày 21 tháng 10 năm Quý Dậu (10 – 12 – 1873), quân Pháp vượt qua đường Độc Bộ (4) để tiến vào đánh thành Nam Định. Trên đường tiến quân, chúng đã vấp phải sức chống cự quyết liệt của đội dân binh của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị lúc đó là Thượng Biện Hải Phòng sứ.

Ngay từ đầu sức chiến đấu của nhân dân tại chỗ lại rất mạnh và gây cho quân Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Bá hộ Trấn Chí Thiện, người làng Bảo Long (nay là Phù Long, xã Vị Xuyên, phía bắc thành phố Nam Định) đã chỉ huy đội dân quân yêu nước kéo tới chiến đấu bảo vệ thành, và đã anh dũng hy sinh (9 – 12 – 1873). Cũng chính vào thời điểm quyết liệt này, hai con Nguyễn Mậu Kiến là Nguyễn Hữu Bản và Nguyễn Hữu Cương đã kịp thời đưa quân từ Động Trung (Kiến Xương – Thái Bình) vượt sông kéo tới tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ thành Nam Định. Bằng hành động ứng nghĩa kịp thời, Nguyễn Mậu Kiến đã nêu cao ngọn cờ yêu nước chống xâm lược Pháp trên đất Thái Bình. Đến khi thành mất, trong lúc Hoàng giáp Phạm Văn Nghị chiêu mộ 7.000 quân kéo về xây dựng căn cứ tại vùng núi An Hoà (Phong Doanh, Ý Yên ngày nay) thì Tiến sĩ Doãn Khuê cũng rời bản doanh từ hữu ngạn sang tả ngạn sông Hồng, về thôn Đông Vinh (nay là xã Vũ Vinh, huyện Vũ Tiên) để xây dựng cơ sở lâu dài. Còn Nguyễn Mậu Kiến về căn cứ Động Trung (Kiến Xương), rồi ra sức phát triển lực lượng để chờ ngày sống mái với kẻ thù. Như vậy là đã hình thành hai lực lượng yêu nước chống Pháp đóng chốt hai bên sông Hồng làm thế ỷ dốc nương tựa vào nhau. Đặc biệt Nguyễn Mậu Kiến và Doãn Khuê đã phối hợp chặt chẽ lãnh đạo toàn mặt trận 4 huyện tả ngạn sông Hồng (Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định, Tiền Hải). Cùng lúc đó, nghĩa quân trên cả hai vùng Nma Định và Thái Bình đều rầm rộ phát triển, nơi thực hiện rào làng chiến đấu, đánh cho giặc Pháp những đòn rất nặng khi chúng muốn lấn sâu vào nông thôn, dồn chúng vào thế bị o ép phải cố thủ trong thành Nam Định.

Với uy tín và tài tổ chức chiến đấu, cộng với kinh nghiệm đánh dẹp giặc trên vùng biên giới, chỉ trong một thời gian ngắn gia tộc Nguyễn Mậu Kiến đã tập hợp được một lực lượng chiến đấu khá đông đảo, trên dưới 2000 người, gồm một số là “gia nhân” và thanh niên trai tráng trong vùng, và cả các miền xa như Nam Định sang, Hải Dương tới, tất cả đều được trang bị bằng các loại vũ khí tự tạo như giáo mác, thiết lĩnh và một số súng đạn mua được từ biên giới chuyển về (5). Vấn đề hậu cần của nghĩa quân bao gồm các khâu lương thực, quần áo, tiền bạc chi tiêu cũng được giải quyết tốt đẹp vì gia đình ông vốn giàu có nhất vùng.

Lo sợ trước sự lớn mạnh của phong trào tỉnh Thái Bình, giặc Pháp từ Nam Định vội vã đưa pháo thuyền và binh sĩ xuôi sông Hồng xuống cửa Văn Môn (cửa Hưng) tiến đánh Động Trung là căn cứ chính của nghĩa quân Thái Bình. Nghĩa quân do Nguyễn Mậu Kiến trực tiếp chỉ huy đã kịp thời bố trí trận tuyến theo sông Hồng, giáng trả cho địch những đòn thích đáng, gây cho chúng những tổn thất nặng nề về vũ khí và quân số. Để trả thù, giặc Pháp đã đốt phá nhà ông và nhiều kho thóc gạo nuôi quân. Nhưng chúng chỉ mới đốt cháy các đầu đao nhà, cánh cửa sổ, cột nhà mà chưa đủ thì giờ thiêu huỷ hoàn toàn từ đường họ Nguyễn vì đồng bào Công giáo thôn Hanh Cù và thôn Cổ Việt (nay là xã Vũ Việt, huyện Vũ Thư) bên cạnh đã kịp thời kéo đến dập tắt ngọn lửa. Nếu liên hệ sự kiện này với việc Nguyễn Mậu Kiến trong những năm 1861 – 1862 đã có công dàn xếp những vụ xung đột lương giáo ở địa phương thì thấy rõ cảm tình của đồng bào công giáo đối với ông (6). Sau khi căn cứ Động Trung bị đốt phá, nghĩa quân Nguyễn Mậu Kiến phối hợp với nghia quân Doãn Khuê đem quân đánh chiếm đồn Chân Định để xây dựng căn cứ kháng chiến mới.

Nhưng rồi chà đạp lên chiến thắng Cầu Giấy oanh liệt của quân miền Bắc (21 – 12 – 1873), triều đình đã ký hàng ước năm 1874 tiến sâu thêm một bước vào con đường khuất phục đầu hàng giặc. Do không chấp nhận lệnh bãi binh của triều đình, Nguyễn Mậu Kiến đã bị lột hết chức tước phẩm hàm, rồi bắt sung vào làm lính ở quân thứ Thái Nguyên – Tuyên Quang. Đến năm 1877, nhờ có nhiều bạn bè tâm đắc biết rõ tài năng và đức độ của ông nên đã nhiều lần gửi giấy về kinh đô Huế xin vua Tự Đức trọng dụng ông, ông được cử về sơn phòng tỉnh Hưng Hoá (Đồn Vàng, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ) giúp Thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm lo liệu việc tập luyện binh mã, khai khẩn ruộng nước để làm kế sách công thủ lâu dài. Việc đề đạt này hoàn toàn đáp ứng mong muốn mà ông hằng ấp ủ là được trực tiếp góp phần vào công cuộc đánh giặc Pháp cứu nước. Câu thơ “ Mệnh hạ văn kê kiếm tiện ma” (Lệnh ban gà gáy tuốt gương mài) trong bài thơ ông gửi cho các bạn trong Kinh đô Huế trước khi lên đường đi quân thứ nói lên nỗi niềm phấn khởi của ông (7).

Chính trong lúc Nguyễn Mậu Kiến đang cùng các bạn đồng tâm đồng chí ra sức chuẩn bị lực lượng về người và của cho những cuộc chiến đấu quyết định trước sau nhất định sẽ xảy ra thì ông ngã bệnh và qua đời tại quân doanh Đồn Vàng (Hưng Hoá) ngày 8 tháng 9 năm Kỷ Mão (1879) sau một cơn sốt rừng ác tính. Lúc bị bệnh nguy, biết không qua khỏi, ông đã viết di chúc dặn các con cúng thêm ruộng cho lính và bền chí chiến đấu.

Lời căn dặn cuối cùng của người cha suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp cứu nước đến hơi thở cuối cùng đã được các con nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ không đầy 5 năm sau, quân Pháp lại kéo ra Bắc lần thứ hai (đầu tháng 4 năm 1882), nổ súng đánh chiếm thành Hà Nội (25 – 4 – 1882), sau đó thừa thắng đánh chiếm các thành Quảng Yên, Hồng Gai… và cuối cùng cũng là thành Nam Định (3 – 1883).

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thành Nam Định cả ba người con của Nguyễn Mậu Kiến là Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn Hữu Phu lại mang quân sang, và Nguyễn Hữu Bản đã hy sinh anh dũng trước cửa Đông thành Nam Định.

Thành Nam Định thất thủ, nhưng Hữu Cương và Hữu Phu vẫn sát cánh cùng quân sĩ dưới quyền tiếp tục chiến đấu một mất một còn với giặc Pháp. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thái Bình mà Nguyễn Mậu Kiến đã có công khởi phát, vượt qua muôn vàn gian khổ và bất chấp lệnh giải binh của triều đình sau khi ký các hiệp ước 1883 và 1884, vẫn được duy trì và kéo dài nhiều năm sau, mãi đến khi tiếng súng Cần Vương lặng im năm 1896 thì chuyển sang thời kỳ mới. Người con của Nguyễn Mậu Kiến là Nguyễn Hữu Cương cũng chuyển sang phong trào yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX. Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lược của gia đình và của địa phương; trong số những con em của Thái Bình đứng ra tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lên nin, chúng ta lại thấy có mặt nhiều người thuộc thế hệ cháu của Nguyễn Mậu Kiến và gia đình ông đã có công đóng góp to lớn vào việc xây dựng, tô bồi và phát huy truyền thống yêu nước cách mạng trong lịch sử quê hương Thái Bình xuyên suốt chiều dài lịch sử cận đại Việt Nam.

Câu đối sau đây của văn thân tỉnh Thái Bình viếng Nguyễn Mậu Kiến đã tóm tắt cuộc đời vì dân vì nước của ông, đồng thời cũng nói lên cảm phục sâu xa của người đương thời đối với ông:

Bất tuỳ tử nhi vong, thư bản bách niên phù thế giáo;

Khả vị sinh giả hận, sơn phòng nhất sự khuất thời anh”.

(Không theo cái chết mà mất, ván sách trăm năm còn giúp cho nền giáo hoá ở đời;

Có thể nói người sống còn hận, một việc sơn phòng làm nhụt chí khí anh hùng).

Chú thích

1. Nguyễn Quang Bích (1832 - 1891): người làng Trình Phố, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, đỗ Hoàng Giáp. Khi Pháp đánh Hưng Hoá (1883), ông đang giữ chức Tuần phủ. Được vua Hàm Nghi cử đứng đầu lực lượng chống Pháp miền Bắc. Mất tại căn cứ năm 1891.

2. Doãn Khuê (1813 – 1882): người làng Ngoại Lăng (nay là xã Song Lăng), hueyẹn Vũ Thư, đỗ tiến sĩ năm Mậu Tuất (1838). Từng làm doanh điền sứ, rồi Đốc học tỉnh Nam Định. Một trong những nhà văn yêu nước chống Pháp của Thái Bình.

3. Chính sách sai lầm cấm và giết các giáo sĩ và giáo dân của triều Nguyễn.

4. Đồn đóng trên cửa sông Vị Hoàng thông với sông Đáy ở cửa Nghĩa Hưng, chặn trên đường vào thành Nam Định.

5. Nguyễn Mậu Kiến có uy tín trong vùng, lại giao thiệp rộng, quen biết nhiều Hoa kiều từ Hải Ninh đến Kiến Xương nên nhờ họ mua sách thạch bản từ Áo Môn (Trung Quốc) về cho. Cũng thông qua những người Hoa Kiều này mà việc mua súng đạn từ biên giới chuyển về được thuận lợi.

6. Thần phả ở thôn Đông Vinh (nay là xã Vũ Vinh, huyện Vũ Tiên) có ghi lại sự việc dân công giáo thôn Đông Quý (tức thôn Hanh Cù) kéo tới dập tắt đám cháy từ đường họ Nguyễn do giặc Pháp gây ra. Hiện nay ở địa phương vẫn còn lưu lại một số tên gợi nhớ lại cuộc đốt cháy và tàn phá này, như “ngày giỗ trận”, “quán cháy”, “cây nhãn cháy”…

7. Nguyễn Mậu Kiến – Đinh Sửu hữu quân thứ chi mệnh lưu giải Kinh trung liên hữu (Năm Đinh Sửu có lệnh đi quân thứ gửi lại các bạn trong Kinh).

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.