Nguyễn Cư Trinh - Người hoàn thành công cuộc mở mang lãnh thổ miền Tây Nam Bộ
1. Nhu cầu hoàn tất công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn nửa đầu thế kỷ XVIII
Sự phân biệt và cuộc đối đầu giữa hai thế lực phong kiến Trịnh - Nguyễn trong các thế kỷ XVI, XVII đã hối thúc các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải nhanh chóng tạo dựng cho mình một "giang sơn riêng"để làm đối trọng với thế lực của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Và sự lớn mạnh không ngừng của chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII đã đặt ra nhu cầu bức thiết phải mở rộng hơn nữa lãnh thổ Đàng Trong. Bên cạnh đặc tính hiển nhiên của bất kỳ thế lực phong kiến nào là bành trướng lãnh thổ thì nhu cầu ấy còn được thúc đẩy bởi những điều hẹn khách quan hết sức thuận lợi.
Năm 1672, sau cuộc tiến binh quy mô lần thứ bảy mà vẫn không thắng được chúa Nguyễn, sông Gianh (Linh Giang) được lấy làm ranh giới phân tách Đàng Trong - Đàng Ngoài. Và khi mặt Bắc tạm thời yên ổn, chúa Nguyễn một mặt tập trung sức lực củng cố nội trị, mặt khác đẩy mạnh công cuộc Nam tiến.
Trong thời gian này, ở phương Nam, sau nhiều thế kỷ tập trung đối phó với các cuộc xâm lăng, can thiệp của Xiêm, nước Chân Lạp đang bước vào giai đoạn suy yếu. Đây là điều kiện khách quan thuận lợi và là cơ hội tốt để các chúa Nguyễn thực hiện ý đồ của mình.
Hơn nữa, tuy Chân Lạp chiếm giữ vùng Nam Bộ trong một thời gian dài, nhưng vua Chân Lạp không làm gì lớn lao để phát triển vùng này. Nam Bộ trên danh nghĩa thuộc Chân Lạp nhưng "thuộc một cách lỏng lẻo", "các dân tộc vẫn sống tự trị và mấy sóc Khmer lẻ tẻ chưa hợp thành đơn vị hành chính thuộc triều đình Chân Lạp" 1. Khi lưu dân Việt đến khẩn hoang lập ấp thì vùng Sài Gòn và Nam Bộ vẫn là đất tự do của các dân tộc, "là đất hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa"2.
Bên cạnh những điều kiện khách quan thuận lợi đó, sự phát triển vượt bậc của kinh tế hàng hóa ở Đàng Trong, sự hình thành luồng thương mại quốc tế ven biển Đông cộng với chính sách ngoại thương thông thoáng, cởi mở của chúa Nguyễn đã thu hút đông đảo thương nhân nước ngoài đến Đàng Trong buôn bán, làm ăn, đặc biệt là sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các nước phương Tây. Đây là những tiền đề hết sức thuận lợi cho các chúa Nguyễn trong việc mở đất miền Tây Nam Bộ đầu thế kỷ XVIII.
Lịch sử Nam tiến trước đó đã tạo ra tiền đề trực tiếp cho công cuộc khai phá miền Tây. Đồng thời với công cuộc khai phá Nam Trung Bộ (trên đất Champa), người Việt cũng dần dần tiến vào vùng Đông Nam Bộ.
Năm 1620, sau cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn, Xứ Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hoà và Sài Gòn) là những vùng đầu tiên đón những lưu dân Việt vào Nam bộ. Năm 1679, đạo quân 3.000 người của 2 di thần nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn Phúc Tần sử dụng cho đưa đến định cư, khai phá ở Đồng Nai và Mỹ Tho (Tiền Giang).
Năm 1691, chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) sai Nguyễn Hữu Hào làm Thống suất tiến đánh Nặc Ông Thu (Chân Lạp). Nặc Ông Thu đại bại. Từ đó Chân Lạp càng suy yếu, những vùng do lưu dân Việt và người Hoa tị nạn khai thác được ở Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho dân ta được tự do làm ăn, mở mang thương mại không bị phiền nhiễu như trước 3.
Đến năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) hạ lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đi kinh lược miền Nam. Trong chuyến đi này, ông đã chia doanh huyện, đặt quan chức, chính thức thiết đặt nền hành chính của người Việt ở miền Đông Nam Bộ (lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa - Đồng Nai) và dinh Phiên Trấn (Gia Định).
Như thế, cư dân Việt, Hoa đã "đi trước"vào khai phá miền Đông Nam Bộ và vào cuối thế kỷ XVII, được nhà nước "theo sau"tổ chức thành các đơn vị hành chính để quản lý. Cũng trong thời gian này, họ cũng đã bắt đầu đến khai phá một phần đất miền Tây Nam Bộ; đó là vùng Mỹ Tho. Đầu thế kỷ XVIII, công cuộc mở mang miền Tây Nam Bộ diễn ra mạnh mẽ hơn với 2 sự kiện lớn.
Năm 1708, một thương nhân người Hoa là Mạc Cửu (đến định cư và khai phá vùng Hà Tiên từ trước đó), đã xin thần phục chúa Nguyễn, được chúa Nguyễn ban cho chức Tổng binh trấn giữ đất Hà Tiên. Hà Tiên chính thức sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn.
Năm 1732, dinh Long Hồ (nay là Vĩnh Long) được thành lập sau khi chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 - 1738) yêu cầu vua Nặc Tha (Sotha II) phải nhượng hai phần đất Mésa (Mỹ Tho) và Longhor (Vĩnh Long) cho chúa cai quản. Đây có thể xem là tiền đề quan trọng và trực tiếp để hoàn chỉnh công cuộc mở mang lãnh thổ miền Tây. Bởi tuy các chúa Nguyễn lúc nào cũng chú ý đến việc mở rộng biên giới phía Nam, nhất là sau khi mặt Bắc tạm yên ổn (1672) nhưng đến thời gian này, lãnh thổ Đàng Trong mới chỉ bao gồm miền Đông Nam Bộ, thu phục được trấn Hà Tiên ở phía Tây "còn các vùng hoang vu như Lôi Lạp (Gò Công), Tầm Bôn (Tân An), Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu), Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và đất Tầm Phong Long (cả miền Thất Sơn chạy xuống Sa Đéc) vẫn thuộc người Miên cố thủ"4.
Như vậy, sự sáp nhập đất Hà Tiên vào lãnh thổ Đàng Trong (1708) ở phía Tây 5, sự thiết đặt dinh Long Hồ (1732) và việc củng cố đất Gia Định, Đồng Nai ngày càng thêm vững chãi ở phía Đông đã tạo ra một gọng kìm khiến việc mở đất miền Tây Nam Bộ của chúa Nguyễn như là một bước đi tất yếu. Đến nửa đầu thế kỷ XVIII, sự lớn mạnh của Đàng Trong đã khiến cho việc mở đất miền Tây Nam Bộ do đó không chỉ đơn thuần là để đáp ứng nhu cầu sinh kế của cư dân mà đã trở thành một yêu cầu bức bách, tất yếu nhằm hoàn chỉnh công cuộc mở mang lãnh thổ phương Nam của các chúa Nguyễn. Đến đây, hoàn cảnh lịch sử đã hết sức thuận lợi để chúa Nguyễn có thể thu phục đất Tầm Phong Long còn lại, nối liền Gia Định và Hà Tiên thành một dải.
2. Nguyễn Cư Trinh với việc thu phục đất Tầm Phong Long, hoàn thành quá trình mở đất Nam Bộ
Đất Tầm Phong Long xưa là "vùng đất được cấu tạo bởi một địa hình kỳ thú: đất vừa rộng, sông dài với nhiều cồn bãi, cù lao giữa hai sông Tiền và sông Hậu; vừa có núi, có rừng, phía bờ Tây sông Hậu là vùng bán sơn địa "cò bay mỏi cánh" 6.
Về địa vực, Tầm Phong Long là một vùng rộng lớn kéo dài từ biên giới Việt Miên chạy dọc theo sông Tiền và sông Hậu xuống tới Trà Vang (Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Bề ngang từ ranh giới Hà Tiên sang đến Tầm Bôn (Tân An) và từ Ba Thắc đến Long Hồ. Có thể nói vùng này chiếm toàn bộ vùng đất An Giang, Đồng Tháp ngày nay và một phần các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang... Về địa thế, thì "vì có thế hiểm của vùng Thất Sơn 7, người Chân Lạp còn chiếm mãi" 8. "Lúc nào người Chân Lạp cũng dùng Tầm Phong Long này làm nơi trú ẩn (trường hợp Nặc Nguyên đại bại năm 1753) hoặc nương vào địa thế hiểm trở mà tiến công (trường hợp Thống suất Thiện Chính bị tập kích ở đất Vô Tà Ân)" 9.
Có lẽ chính vì đó mà sự sáp nhập của vùng đất này vào lãnh thổ Đàng Trong là một quá trình đầy khó khăn và nhiều trở ngại. Cơ hội thu phục đất Tầm Phong Long chỉ đến khi sự suy yếu của Chân Lạp ngày càng thể hiện rõ.
Năm 1699, Nặc Ông Thu làm phản. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào đánh dẹp. Quân chúa đến Long Hồ mùa xuân năm 1700 sau đó đánh thẳng sang Phnom Penh. Nặc Ông Thu không chống lại nổi phải bỏ chạy. Thời gian này, chiến tranh giành ngôi trong nội bộ Chân Lạp diễn ra liên miên không dứt. Ông Thâm cầu viện Xiêm còn Ông Tha dựa vào chúa Nguyễn. Năm 1748, Ông Thâm sau khi đại bại bỏ trốn sang Xiêm, lại kéo về đuổi Nặc Ông Tha để giành ngôi. Nhưng sau khi ông Thâm mất, các con Thâm lại giành ngôi báu và có người sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) cử Nguyễn Hữu Doãn đem binh vào dẹp và lập Ông Tha trở lại. Nhưng chỉ vài tháng, con Ông Thâm là Nặc Nguyên cùng viện binh Xiêm lại trở về, tranh lại ngôi vua (1750) 10.
Sau khi lên làm vua Chân Lạp, Nặc Nguyên thường hay hà hiếp người Côn Man (người Chăm định cư trên đất Chân Lạp), lại còn giao thiệp với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để tìm cách đánh chúa Nguyễn, giành lại các vùng đất đã mất. Chúa Nguyễn biết việc đã sai Nguyễn Cư Trinh đưa quân sang đánh Nặc Nguyên (1753).
Năm 1753, chúa Nguyễn (Phúc Khoát) "sai cai đội Thiện Chính hầu làm thống suất, ký lục Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh làm tham mưu, đem quân đi đánh Cao Miên" 11. Mùa đông năm 1754, quân chia làm 2 đạo. Nguyễn Cư Trinh "đem kỳ binh từ sông Bát Đông tiến vào, đi đến đâu cũng như gió lướt. Bốn phủ Xôi Lạp 12, Tầm Bôn, Cầu Nam, Nam Vang 13đều hàng" 14. Người Côn Man nhân đang căm hận Cao Miên cũng đứng về phía quân Việt đánh phá Chân Lạp.
Nguyễn Cư Trinh sau đó hội quân với Thiện Chính hầu, đóng ở xứ Lô Yêm. "Sai biệt tướng là Chấn Long hầu đến phủ Tàm trầm xiêm (Kongpong Cham), chiêu dụ người Côn Man ở Thuận Thành làm quân tiếp ứng. Vua Cao Miên là ông Nguyên (Nặc Nguyên) trốn vào phủ Tầm trầm tho (Kongpong Thom)" 15chờ thời phản công.
Năm 1755 , "Thiện Chính hầu lui quân về đóng ở Mỹ Tho, sai binh Côn Man Thuận Thành đem xe cộ tự Kha Tung 16xuống đóng đồn ở Bình Thạnh, đinh tráng có hơn 1 vạn người. Đi đến xứ Vô Tà Ân thì quân Cao Miên (của Nặc Nguyên) xưng là hơn vạn người đuổi theo. Người Côn Man đi mệt, xếp xe cộ lại làm lũy để chống cự. Cư Trinh đem 5 đội quân đến cứu, quân Cao Miên không dám đánh. Cư Trinh bèn đón người Côn Man cả trai gái hơn ba vạn người đến đóng ở chân núi Bà Đinh 17rồi khải lên kể tội thống suất Thiện Chính hầu làm lỡ việc. Phúc Khoát giận, đòi Thiện Chính hầu về, sai Du Chính hầu thay làm tướng, giáng Thiện Chính hầu làm cai đội. Người Côn Man đã phụ theo, bèn đánh lấy Cầu Nam và Nam Vang, giết mấy người Ốc nha Cao Miên. Vua nước ấy sợ hãi, nhờ tổng trấn Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ xin tạ tội" 18.
Đến năm 1756, Chân Lạp đánh lấn Côn Man. Chúa Nguyễn sai tướng sĩ 5 doanh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, Bình Khương, Bình Thuận) đi đánh dẹp. Vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thua chạy sang nương náu ở Hà Tiên, xin dâng đất hai phủ Tầm Bôn (Long An) và Soi Rạp 19(Gò Công) và xin nộp bù lễ cống thiếu từ 3 năm trước để chuộc tội và xin về nước 20.
Chúa Nguyễn không cho. Nguyễn Cư Trinh bèn dâng sớ hiến kế tàm thực, đại khái xin được dùng sách lược tằm ăn lá dâu, lần lần sẽ lấy trọn toàn cõi 21. Chúa Nguyễn mới nhận hai phủ ấy đặt làm châu Định Viễn và cho Nặc Nguyên về nước.
Năm 1757, Nặc Nguyên chết, chú họ Nặc Nguyên là Nặc Nhuận quyền tạm coi việc nước. Quan ngoài biên tâu xin nhân tiện lập Nặc Nhuận làm vua, chúa sai bắt nộp đất 2 phủ Trà Vinh (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trắng, Bạc Liêu) rồi mới ưng thuận. Con rể Nặc Nhuận là Hinh giết Nhuận để cướp ngôi. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên cầu cứu Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ dâng sớ lên chúa Nguyễn tâu trình tình hình nội biến của Chân Lạp và xin chúa ủng hộ Nặc Tôn. Thấy thuận lời và thuận ý, Chúa Nguyễn phong Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long, cắt đất 5 phủ là Vũng Thơm, Hương Úc, Cần Giột (Cần Bột), Chân Xum (Chân Xâm), Xoài Mút (Sài Mát), Linh Quỳnh để tạ ơn 22.
Sau khi có được đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh "tâu xin dời doanh Long Hồ đến xứ Tâm Bào. Lại đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc (Phsar Dek), đạo Tân Châu ở Tiền Giang (đồn quân đóng ở Koh Teng, tức Bãi Dinh, Cù Lao Giêng hiện nay), đạo Châu Đốc ở Hậu Giang (đồn quân đóng ở Mok Churk (hay Mótt Chrúk), tức Châu Đốc), đều đem lính doanh Long Hồ đến trấn áp (1757). Cõi Nam mở đất đến đây rất rộng, đều là công của Cư Trinh" 23.
Tuy nhiên, thời gian này Tân Châu đạo "chỉ là một đồn binh biên tái, rất hẻo lánh, hoang tịch. Ngoài số người Việt vì công vụ, rất ít thường dân Việt, mà phần đông là thổ dân (Miền)" 24.
Như vậy có thể thấy rằng từ năm 1708 đến 1757, do sức ép xâm lược từ Xiêm, nội bộ lại tranh giành quyền lực, Chân Lạp ngày càng trở nên suy yếu. Yếu tố khách quan đó đã giúp chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ của mình lên toàn cõi đồng bằng sông Cửu Long chỉ trong một thời gian ngắn. "Từ khi tháp nhập đất Hà Tiên vào Đàng Trong đến năm 1757, trong nửa thế kỷ mà chúa Nguyễn đã chiếm lĩnh trọn đất đồng bằng sông Cửu Long. Đó là cuộc mở mang bờ cõi quan trọng nhất và nhanh nhất của chúa Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam" 25. Đến năm 1757, các chúa Nguyễn đã có được một lãnh thổ rộng lớn nối liền từ Gia Định đến Hà Tiên. Nam Bộ đã được tiếp thu vào lãnh thổ Đàng Trong bằng các biện pháp khéo léo, linh hoạt của các chúa Nguyễn mà trong đó công lao của Nguyễn Cư Trinh là hết sức to lớn.
3. Nguyễn Cư Trinh với công cuộc củng cố, bảo vệ và phát triển vùng đất mới
Có được đất Tầm Phong Long nhưng do đây là địa bàn có địa hình và tình hình dân cư bản địa phức tạp nên không phải di dân Việt đến tụ cư đông đúc ngay. Xung quanh các trại ở các đạo lúc đầu chỉ có một số ít xóm người Việt - chủ yếu là gia đình binh sĩ - định cư, khai khẩn đất đai... rồi dần về sau mới có thường dân đến lập nghiệp. Còn các nơi xa dọc theo sông Tiền, sông Hậu thì vẫn là địa bàn sinh sống của người Khmer, nhưng cũng chỉ rải rác. Sau khi có được đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh tập trung binh lính và mộ dân đến khai thác các vùng Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Sa Đéc 27.
Để ổn định đời sống người dân và tạo nguồn lực củng cố và phát triển hơn nữa Đàng Trong, chính sách khuyến nông được các chúa Nguyễn hết sức chú ý. "Binh lính cũng như cùng dân đều bị bắt buộc đi vỡ ruộng. Những người tích cực góp phần vào công tác trên đều được đương quyền tùy nghi mà khuyến khích bằng cách miễn giảm dịch vụ hoặc không bị ra đi đánh giặc. Từng đoàn người gọi là điền tốt được chiêu mộ đi khai hoang. Ruộng đất được cấp phát; trâu bò, canh cụ được giúp đỡ; đồn điền kho lẫm được thành lập ngay tại những nơi hoang vu, rừng núi. Tầm Phong Long tiếp nhận những đoàn nông dân đi khai hoang tập thể đúng vào thời gian này" 28.
Nhằm củng cố và bảo vệ các vùng đất vừa thu phục được, Nguyễn Cư Trinh đã dâng tấu xin chúa Nguyễn để cho dân Côn Man định cư ở hai phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp để thông qua đó sử dụng lực lượng dân cư này trong việc khai thác và bảo vệ vùng đất mới này.
Trong chính sách đối với các lực lượng dân cư ở miền Nam, Nguyễn Cư Trinh đã nhận thức được tầm quan trọng của sự hòa hợp của người Việt với các tộc người xung quanh. Ý thức được rằng người Việt không chiếm đa số áp đảo đối với các tộc người khác (người Việt vào buổi đầu của xứ Đàng Trong chỉ là một trong số các cộng đồng dân cư tại đây, lại là cộng đồng đến sau, định cư trên một vùng trước đây có tộc người khác sinh sống), Nguyễn Cư Trinh đã có chính sách mềm dẻo, linh hoạt nhưng cũng rất cương quyết trong việc giữ sự hòa hợp giữa các cộng đồng tộc người cùng sinh sống trên địa bàn... tạo điều kiện tối đa để các cộng đồng dân cư này hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ xứ Đàng Trong.
Ông có nhiều sáng kiến trong việc củng cố và phát triển vùng Nam Bộ về mọi mặt như để chống nạn giặc cướp thuyền buôn, Nguyễn Cư Trinh "hạ lệnh cho các hạt, phàm thuyền lớn nhỏ, đều phải khắc tên họ quê quán chủ thuyền ở đầu, do quan sở tại làm sổ thuyền để tiện tra xét. Từ đây, kẻ gian không ẩn núp vào đâu được, trộm cướp phải im hơi" 29.
Những nỗ lực của Nguyễn Cư Trinh đã góp phần quan trọng vào công cuộc khẩn hoang, lập làng, tạo tiền đề quyết định cho sự ổn định và phát triển của vùng biên viễn miền Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn.
***
Tóm lại, có thể thấy rằng, công cuộc Nam tiến mạnh mẽ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong vòng gần 150 năm (1611 - 1757) đã tạo dựng nên một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phương Nam nhiều hơn năm trăm năm (1069 - 1471) mở cõi của các triều Lý, Trần, Hồ, Lê trước đó. Diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt và thuận lợi hơn trước, công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn được tiến hành với tốc độ nhanh hơn, quyết liệt hơn và với các phương thức mềm dẻo, linh hoạt, sử dụng con đường ngoại giao hòa bình nhiều hơn. Nếu như việc mở đất vào vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ diễn ra gần như đồng thời trong thế kỷ XVII thì việc mở đất miền Tây chủ yếu diễn ra trong nửa đầu thế kỷ XVIII.
Từ năm 1732, khi các chúa đã đặt được nền tảng hành chính ở dinh Long Hồ (Vĩnh Long ngày nay) thì vùng đất Tầm Phong Long (phía Tây và phía Bắc Long Hồ) trở thành vùng đất cuối cùng được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, An Giang với vị thế địa chính trị của mình trở thành vùng đất trọng yếu trong việc tranh giành ảnh hưởng giữa thế lực họ Nguyễn và các thế lực phong kiến Chân Lạp. Để rồi qua bao thử thách khốc liệt, đến năm 1757, vùng đất này là vùng biên cương sau cùng sáp nhập lãnh thổ thiêng liêng của đất nước Việt Nam.
Trong công cuộc mở đất gian lao trên vùng đất Tầm Phong Long rộng lớn xưa - An Giang nay - bao thế hệ người Việt, cả tướng lĩnh và binh dân đã đổ nhiều máu xương mới có được lãnh thổ này. Trong đó với tư cách là vị tướng biên thùy, hơn 10 năm chinh chiến và cai quản vùng đất này (1753 - 1765), vai trò và đóng góp của Nguyễn Cư Trinh có thể xem là nổi bật nhất. Ông không chỉ là người đề ra và trực tiếp thực hiện chính sách "tằm ăn dâu" trong việc đối phó với các thế lực Chân Lạp, thu phục đất đai mà còn thực thi nhiều kế sách khác để củng cố, bảo vệ vùng biên cương mới giành được như tổ chức di dân, lập ấp, di dời lị sở, chia đặt các đơn vị hành chính, chống cướp bóc, thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc trong việc chiêu dụ người Côn Man trở về và bảo vệ họ... Vì thế Nguyễn Cư Trinh được người đi khẩn hoang ở vùng Nam Bộ tưởng nhớ bằng việc dựng miếu thờ, tổ chức lễ hội... Công lao của ông đối với vùng đất này được người đời sau ghi nhớ như là "người dày công hoàn thành cuộc mở nước vùng Châu Đốc, Cần Thơ, Vĩnh Long" 30.
* CHÚ THÍCH
(1) Cao Thanh Tân (2009), Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr. 36.
(2) Cao Thanh Tân (2009), Sđd, tr. 36.
(3) Nguyễn Văn Hầu (1970), "Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long", Tập san Sử Địa - tập 19 - 20, tháng 7 - 12. 1970, Sài Gòn tr. 7. Nguyễn Văn Hầu (1970). 'Si/ thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long' .
(4) Nguyễn Văn Hầu (1970), "Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long", Tlđd, tr. 7.
(5) Khi đất Hà Tiên thuộc về Đàng Trong thì sự đe dọa của Xiêm đối với Chân Lạp sẽ lớn hơn, Chân Lạp buộc phải tìm sự ủng hộ của các chúa Nguyễn trong cuộc đối đầu với Xiêm ở phía Tây.
(6) Nguyễn Hữu Hiệp (2007), "Lịch sử địa giới hành chính tỉnh An Giang", Nam bộ xưa và nay, Nxb Tp HCM - Tạp chí Xưa và Nay xuất bản, Tp HCM, tr. 59.
(7) "Thất Sơn là một vùng chiến thuật quan trọng chẳng những ngày xưa mà cho cả ngày nay. Nếu biết lợi dụng để khai thác, địa điểm này là một vị trí án ngữ cả bờ biển Hà Tiên - Rạch Giá và là một bức thành kiên cố bên cạnh Miên quốc và Thái Lan" - Nguyễn Văn Hầu (2000), Nửa tháng trong miền Thất Sơn, Nxb Trẻ, Tp HCM, tr. 252.
(8) Nguyễn Văn Kiềm - Huỳnh Minh (2003), Tân Châu xưa, Nxb Thanh Niên, Tp HCM, tr. 9.
(9) Nguyễn Văn Hầu (1970), "Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long", Tlđd, tr. 10.
(10) Nguyễn Văn Hầu (1970), "Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long", Tlđd, tr. 8.
(11) Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập - tập 1), Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 68.
(12) Cũng viết là Lôi Lạp. Xôi Lạp, Tầm Bôn: tương đương Cần Thơ, Long Xuyên ngày nay.
(13) Cầu Nam, Nam Vang: nay thuộc Campuchia.
(14) Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập - tập 1), Sđd, tr. 68.
(15) Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập - tập 1). Sđd, tr. 68.
(16) Nay ở phía Bắc tỉnh Tây Ninh.
(17) Tức núi Bà Đen, thuộc tỉnh Tây Ninh.
(18) Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập - tập 1), Sđd, tr. 69.