Nguyễn Bá Nghi và những ghi chép liên quan đến Tây Sơn
Thân phụ Nguyễn Bá Nghi là Nguyễn Hữu Thể được người cha tiến nạp cho vua Thái Đức, nhưng trước đó, người anh của ông - tức bác ruột của Nguyễn Bá Nghi - có lẽ tên là Nguyễn Hữu Sắc - đã từng đầu quân cho Tây Sơn. Nguyễn Bá Nghi chép: “Khi ông anh ra đi, liền theo viên Thái phó là Nguyễn Diệu [nhầm tên họ của Trần Quang Diệu], cùng thờ vua Quang Trung, được làm chức Tham lãnh (hàm nhị phẩm), hiện có gia phả chép riêng”. Tuy nhiên đến đoạn sau, Nguyễn Bá Nghi lại có hé lộ một chút về ông bác của mình rằng về sau ông đã chết trận ở Quảng Nam . Nguyên do khiến anh em ông Sắc, ông Thể đi theo Tây Sơn là “Nhân hồi ấy trong nhà sa sút, không đủ sinh nhai, lại phần bị bọn hào quí trong làng thường hà hiếp, Tiên khảo lấy làm ân hận trong tâm”.
Về trường hợp thân phụ mình là Nguyễn Hữu Thể đầu quân cho Tây Sơn, Nguyễn Bá Nghi chép: “Tới năm 16 tuổi, ngài đã nghiễm nhiên có vẻ người lớn, diện mạo khôi ngô, khí độ khoát đạt, khác với mọi người thường. Một hôm có tin nói vua Thái Đức [Nguyễn Nhạc] xa giá từ Quảng Nam đi về Qui Nhơn, Thái ông [ông nội ta] liền gọi Tiên khảo [cha ta] mà bảo: “Ta thấy con vẫn có chí muốn thành lập thân danh, vậy ta tưởng nếu đi theo các vị tướng thần, sao bằng theo ngay hoàng đế xa giá qua xứ ta đây, nếu con ưng ý thì ta sẽ đưa con đến bái yết đức vua, như thế thì lại càng trúng”. Tiên khảo nghe lời vui vẻ xin vâng, Thái ông liền dắt tay Tiên khảo đón giá nhà vua đưa vào bái yết. Vua Thái Đức trông thấy tướng mạo Tiên khảo thì lấy làm vui vẻ và ưng thuận cho theo. Lúc ấy Thái bà [bà nội ta] về ngoại thăm nhà, nên Tiên khảo không kịp bái từ, liền cáo biệt Thái ông và một mình theo vua đến tận Qui Nhơn, và cho thuộc vào Thượng Trà viện, dần dần cải sang ngành võ bị. Đối với các môn cưỡi ngựa, bắn cung, múa đao, đánh gậy, không gì là không thông thạo, song Tiên khảo vẫn không thích tập rèn”. Lý do là ông Thể có thiên tướng về văn hơn. “Tiên khảo vốn tính hiếu học, cho dầu ở nơi quân lữ, song trong áo toàn là sách vở đem theo. Mỗi ngày việc quan xong đoạn là lập tức chọn những tay học giỏi trong đám thơ lại nhờ giảng giải kinh sử để nhận xét thêm, vì thế nên đối với đại nghĩa cổ kim không gì là không sành sỏi”. Theo vua Nhạc, điều hiển nhiên là ông Thể không có tham gia vào trận đánh Thanh, đánh Xiêm nên bản ghi chép cũng không đề cập. Sau đó vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và Quang Trung Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Hữu Thể lại trở thành bộ tướng của Trần Quang Diệu: “Được ít lâu, hai vua Thái Đức và Quang Trung cũng đều băng giá, con vua Thái Đức đã bị mất sớm, nên Thái tử của Quang Trung là Quang Toản được lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh, cũng đóng đô ở Phú Xuân và sai quân ra trấn thủ Qui Nhơn. Tiên khảo lúc này được chuyển theo hướng trướng của Thiếu phó Nguyễn [nhầm họ] Diệu, vì lập được nhiều chiến công nên được phong chức Đô ty (hàm Tam phẩm) coi giữ hai vệ tả hữu thân binh. Năm đó Tiên khảo đã 24, 25 tuổi”.
Ghi chép của Nguyễn Bá Nghi về thân phụ của ông rõ nhất là vào thời điểm tòng chinh theo Trần Quang Diệu vào vây hãm thành Qui Nhơn trong tay quân Nguyễn Ánh do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ: “Sang năm Tân Dậu vua Cảnh Thịnh sai quan thiếu phó Diệu đem quân vào đánh Qui Nhơn mà Tiên khảo ta cũng theo trận đó”. Ghi chép về diễn tiến sau đó của Nguyễn Bá Nghi cũng khá khớp với lịch sử: Trần Quang Diệu hạ được thành Qui Nhơn, nhưng cũng liền hay tin quân Nguyễn đã chiếm được kinh đô Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh phải chạy về đất Bắc, Trần Quang Diệu biết sự thế đã nguy cấp, liền bỏ Qui Nhơn kéo quân theo đường thượng đạo ra Bắc. Ghi chép của Nguyễn Bá Nghi cho thấy lúc này quân Tây Sơn dưới quyền Trần Quang Diệu đã có phần dao động, nếu không nói là có một bộ phận đã muốn tan rã: “Bấy giờ các tay văn hào thân mật đều khuyên Tiên khảo không nên đi theo. Tiên khảo bảo mọi người rằng: “Đi cũng chết mà ở cũng chết, vậy nếu ở mà thêm nhục nhã chẳng thà đi theo còn được cái tiếng hay hơn”. Sau đó số người tâm phúc lại bói quẻ để khuyên Nguyễn Hữu Thể ở lại. Nhưng “Tiên khảo vẫn không chịu nghe lời khuyên và đem quân đi theo. Đường đi qua giải sông Khung vào các nước Ai Lao, Nam Chưởng, xứ đó rất nhiều ngô đậu nhưng hiếm gạo và muối, núi non hiểm trở, thường phải vin cây bám cành, trèo leo rất là vất vả. Phần thì sương mù che phủ, thường khi gần trưa mới thấy mặt trời. Binh mã bị lam sơn chướng khí ốm chết đầy đường. Tiên khảo cũng bị đau ốm, dưới chân phát cái nhọt rất to, miệng lớn bằng cái chén, không cưỡi được ngựa, cứ bám xe hoặc chống gậy để đi, vất vả khốn đốn không biết thế nào mà kể. Ròng rã ba tháng trời mới đến cửa Qui Hợp thuộc trấn thượng du trong tỉnh Nghệ An. Số quân sĩ theo chừng 5.000 người, nhưng không còn được một nửa, mà phần nhiều cũng ốm yếu gầy mòn bất thành nhân cách. Tới đó lại gặp quân của Nguyễn Hoàng [Nguyễn Ánh] đánh chẹn, Nguyễn Diệu cùng các tướng đều bị bắt mà Tiên khảo cũng trong số đó”.
Ghi chép cho thấy Nguyễn Hữu Thể cũng đã có phần may mắn hơn các tướng khác nhờ ở tình trạng đau ốm của ông. “Cũng vì khi ấy cái nhọt ở chân bị vỡ, máu mủ chảy ra khá nhiều, bọn lính giam giữ cho là khó lòng sống nổi, nên bỏ Tiên khảo ở nơi giữa đường mà không chịu giải đi theo. Ở đấy Tiên khảo vào trú ngụ ở một nhà kia, tìm kiếm thuốc men, tĩnh dưỡng lần đầu đã khá nhưng cũng không dám về ngay. Kế đó ít lâu nghe tin có chiếu chỉ chiêu an, tha hết tội lỗi từ xưa, Tiên khảo bèn tới Nghệ An xin dẫn lộ trở về”. Về đến nhà, ông Thể mới hay rằng người anh làm chức Tham lãnh trong quân đội Tây Sơn đã chết trận ở Quảng Nam . Ông tìm ra để đưa hài cốt ông anh trở về mai táng ở quê nhà. Trong bản ghi chép cũng ghi lại rằng Nguyễn Hữu Thể đã lấy vợ tỉnh Quảng Nam trong khi ông đang làm quan võ cho Tây Sơn nhưng cho mãi đến khi ông là một bại tướng trở về vẫn chưa có con, mặc dù lúc này (năm 1802), ông đã 32 tuổi (Đến năm Đinh Mão 1807 mới sinh người con đầu tiên là Nguyễn Bá Nghi). Chuyện kể rằng mẹ của Nguyễn Bá Nghi là bà họ Cao, quê ở Chiên Đàn (Quảng Nam), vốn là người con gái rất có hiếu, năm 23 tuổi chưa chịu lấy chồng chỉ muốn ở nhà phụng dưỡng mẹ. Trong một lần ông Thể kéo quân Tây Sơn ra Phú Xuân, dừng nghỉ ở Chiên Đàn, nghe tiếng bèn đến cầu hôn, bà lấy lý do không muốn xa mẹ để từ chối, mà mẹ cô ép mới chịu. Nguyễn Bá Nghi dành tình cảm rất sâu lắng cho người mẹ: “Tiên tỷ vốn tính rất hiếu, luôn luôn lấy chuyện phải ở xa mẹ làm áy náy trong tâm. Thỉnh thoảng nghe thấy con trẻ hát câu “Mẹ già ở tạm lều tranh, Đói no chẳng biết chết lành nào hay” thì lại nức nở khóc thầm, không thể nín được”. Từ bại trận trở về, Nguyễn Hữu Thể ở nhà làm Tri phủ (lý trưởng) làng Lạc Phố, giúp nhân dân ổn định cuộc sống. Bản ghi chép rằng thời gian này có ông Lê Chất (nguyên Đại đô đốc triều Tây Sơn qui hàng Nguyễn Ánh) được lệnh triệu từ Gia Định về kinh đô, nghe tiếng bèn tìm đến nơi khuyên ông Thể nên lại kinh để ông tâu xin cho lục dụng. Nhưng “Tiên khảo tự nghĩ nửa đời lao lực không nên công trạng gì, vả Thái bà [bà nội ta] lại tuổi đã cao, bỏ đi không tiện, nên Tiên khải từ khước không theo”.
Trong bản ghi chép của mình Nguyễn Bá Nghi còn hé lộ cho biết một số chi tiết về gia đình có liên quan đến Tây Sơn.
Về việc phong tặng trong gia đình, Nguyễn Bá Nghi viết: “Nghi này thừa hưởng dư âm tiền nhân làm quan bậc Chánh khang trong Bộ, Viện và lại đứng hàng Tiết chế ở cõi biên cương [thời nhà Nguyễn]. Lại gặp ngày quốc khánh, đáng lẽ là được phong tặng cho phụ mẫu, nhưng vì Tiên khảo đã từng làm quan trong triều đại Tây Sơn, nên không cho phong tặng, đó cũng là để cho giữ trọn vẹn cái chí không thờ hai vua vậy. Về phần Thái ông vì có con hiển đạt trong triều Tây Sơn, nên trước đó đã được phong tặng Vinh Lộc đại phu và Thái bà cũng được tặng hàm đó”. Chi tiết này cho thấy ông nội của Nguyễn Bá Nghi (theo tộc phả tên là Nguyễn Hữu Đức) và bà nội là Nguyễn Thị Dung đã từng được nhà Tây Sơn phong tặng nhờ các con tham gia và đóng góp cho Tây Sơn.
Ngoài Nguyễn Hữu Sắc, Nguyễn Hữu Thể tham gia Tây Sơn, gia đình Nguyễn Bá Nghi còn có một người mà ông Nghi gọi bằng cô, tức người em gái cả bác và cha ông cũng có liên quan đến Tây Sơn: “Tiên khảo ta tất cả được 5 (?) anh em [chỉ tính anh em trai?], anh lớn là ông Tham lãnh [của Tây Sơn] còn em nhỏ thì ở nhà mà không ra làm việc. Còn người em gái là cô Bảy thì gả cho quan Đại đô đốc trong triều Tây Sơn, sinh tất cả 13 người con, 6 trai 7 gái”. Chúng tôi đã xem tộc phả có ghi tên những người mà Nguyễn Bá Nghi gọi bằng cô, nhưng phần ghi cho nữ xếp riêng ở sau nên cũng khó xác định “cô Bảy” đích thị tên là gì. Còn vị Đại đô đốc triều Tây Sơn chồng bà cũng không thể xác định là ai.
Qua ghi chép, chúng ta có thể khẳng định, quan đại thần nhà Nguyễn là Phó bảng Nguyễn Bá Nghi vốn xuất thân từ một gia đình tham gia Tây Sơn, trong đó gắn bó nhất là thân phụ ông, tức Nguyễn Hữu Thể. Điều đặc biệt trong những ghi chép này ngoài sự hấp dẫn của yếu tố tư liệu giúp ta thấy thêm một số chi tiết về Tây Sơn, còn thú vị ở chỗ thái độ của tác giả. Như đầu đề của bản ghi chép cho thấy, đây không phải là gia phả, không cốt để làm văn, mà chỉ để lưu truyền trong gia đình để con cháu về sau biết được lai lịch, hành trang của ông cha. Nhưng chính sự ghi chép như vậy có cái hay là nó hầu như không hề bị câu thúc bởi tình hình chính trị đương thời - nhất là đối với một vị đại thần như Nguyễn Bá Nghi đang làm quan cho triều Nguyễn đối địch với Tây Sơn. Nói cách khác, chính ở đây ta có thể thấy Nguyễn Bá Nghi bộc lộ đúng suy nghĩ của mình đối với Tây Sơn. Nội việc ghi chép khá tỉ mỉ về những người trong gia đình mình có liên quan đến Tây Sơn đã là một thái độ. Trong ghi chép của mình, Nguyễn Bá Nghi không hề gọi Tây Sơn là “nguỵ triều” hay “nguỵ Tây” như ta thường thấy trong các sách chính thống biên soạn dưới triều Nguyễn. Thái độ của Nguyễn Bá Nghi đối với Tây Sơn nếu không nói là thiện cảm, thì cũng khá khách quan, chiết trung. Nguyễn Bá Nghi sinh năm Đinh Mão 1807, tức sau khi triều Tây Sơn cáo chung ít nhất 5 năm và nói cho đúng thì ông vốn chẳng biết gì về Tây Sơn cả. Tất cả hẳn đều do thân phụ ông là Nguyễn Hữu Thể kể lại. Có lẽ cái chí khí và sở kiến của thân phụ, một bại tướng của Tây Sơn, tuy không làm nên công danh sự nghiệp nhưng vẫn luyến tiếc phong trào này đã truyền đến ông. Đối với các thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Bá Nghi cũng không gọi bằng những từ phê phán hay xem thường. Chẳng hạn ông viết về Nguyễn Nhạc: “Rồi Nguyễn Nhạc xưng đế đóng ở Qui Nhơn”; viết về Nguyễn Huệ: “Người em thứ hai là Nguyễn Huệ, cũng có tên gọi là Quang Bình, lại là một tay hùng kiệt hơn anh, được phong làm Bắc Bình vương cầm quyền tiết chế chư quân, tiến đánh thành Phú Xuân”; về Nguyễn Lữ “Còn người em thứ ba là Nguyễn Lữ, phong làm Đông Định Vương, đóng trấn Nam Kỳ”. Thái độ của Nguyễn Bá Nghi khá khách quan, nội dung của ghi chép khá khớp với lịch sử, tuy có một số chi tiết không thật chính xác do điều kiện thông tin hồi bấy giờ. Nguyễn Bá Nghi cũng không gọi Nguyễn Ánh là Nguyễn Hoàng [với nghĩa hoàng là vua], còn các triều sau thì cứ gọi theo niên hiệu mà không bộc lộ bất cứ một thái độ khen chê nào.
Nguyễn Bá Nghi khi làm Khâm sai Đại thần vào Nam bộ ngăn chặn giặc Pháp đã không cản được, còn để mất thành Biên Hoà nên bị cách chức. Phải kể đời làm quan của Nguyễn Bá Nghi khá lao đao lận đận. Nhưng hình như người đời không quên được ông bởi ông có chủ kiến riêng rất đáng quý mà bản ghi chép có liên quan đến Tây Sơn này là một trong những minh chứng.