Nghiên cứu tế bào gốc: Chất xám Việt Nam theo kịp thế giới
Sinh năm 1966, từng là giảng viên ĐH Nông lâm TP.HCM và hiện là Giáo sư thỉnh giảng trường ĐH Kobe , Nhật, TS. Nguyễn Văn Thuận còn là nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Genomic Reprogramming thuộc Trung tâm Công nghệ Sinh học-Viện Sinh Lý Hóa Nhật Bản (RIKEN - CBD).
- Thưa ông, công việc của ông tại phòng thí nghiệm “Genomic Reprogramming” hiện nay là gì?
-Phòng thí nghiệm của chúng tôi mang tên: “Genomic Reprogramming”. Hiểu theo tiếng Việt là “tái biệt hóa trở lại gen đã đượcbiệt hóa”. Như chúng ta đã biết, tế bào mầm biệt hoá thành một loại tế bào như tế bào da, gan, tim phổi v.v. và chỉ tạo ra đúng loại tế bào ấy mà thôi! Tuy nhiên, ngày nay, người ta đã biết một tế bào đã biệt hóa vẫn có thể tái biệt hóa (Reprogramming) trở lại để tạo thành những tế bào mầm (Stem cell). Những tế bào mầm này nếu được tác động thích hợp có thể tạo nên bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể. Đây chính là một phát hiện mới và có ý nghĩa cao nhất đối với sự thành công nhân bản động vật.
Hiện nay các nhà nghiên cứu về nhân bản vô tính trên thế giới đang tập trung tìm hiểu yếu tố nào đã tác động lên một bộ gen đã được biệt hóa và làm cho nó lập trình trở lại để có thể tạo nên bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể chúng ta. Nếu tìm được chìa khóa tắt mở đó chúng ta không cần phải sử dụng phôi nhân bản của người để tạo ra tế bào gốc ( Nuclear transfer Embryo Stem cell - ntES). Hơn thế, người ta có thể điều khiển trực tiếp tế bào biệt hóa trở thành tế bào chưa biệt hóa, sau đó hướng cho chúng biệt hóa trở lại thành loại tế bào mà chúng ta cần.
Gần đây, giới thông tin đại chúng xôn xao về nhũng kết quả mà các nhà khoa học Hàn Quốc, đứng đầu là GS Hwang Woo-suk đạt được. Theo đó, Hàn Quốc đã thành công trong việc nhân bản vô tính phôi người cho mục đích trị liệu… “Genomic Reprogramming” có đạt được tiến bộ bộ nào trong lĩnh vực này?
Chú thích sơ đồ : Phương pháp nhân bản vô tính trên chuột: 1. Loại bỏ nhiễm sắc thể của tế bào trứng chín (Lấy nhân), 2. Loại bỏ màng tế bào và tế bào chất của tế bào soma 3. Đưa nhân tế bào soma vào tế bào trứng đã lấy nhân (Chuyển nhân), 4. Kích hoạt bằng hóa chất, hoặc xung điện (Kích hoạt trứng) và ức chế sự phân chia của nhiễm sắc thể chúng ta sẽ thu đuợc phôi nhân bản vô tính. 5. Nếu nuôi phôi nhân bản trong môi trường tạo tế bào gốc chúng ta sẽ tạo được tế bào gốc, nếu chúng ta chuyển sang một thú cái mang thai hộ, chúng ta sẽ có được thú nhân bản.
Tỷ lệ thành công của nhân bản rất là thấp khoảng 0.1-2 % đối với những phòng thí nghiệm chuyên nghiệp. Do có rất nhiều những sự khác biệt giữa phôi nhân bản vô tính và phôi thụ tinh bình thường.
Gần đây, chúng tôi đã có thể nâng tỷ lệ thành công nhân bản vô tính lên đến 7-8%, thông qua xử lý những sai sót trong quá trình biệt hóa của tế bào. Công trình này của chúng tôi sẽ được công bố vào cuối năm nay. Một mảng khác trong nghiên cứu của chúng tôi là tạo ra tế bào gốc từ phôi nhân bản. Hiện nay, chúng tôi đang tiến hành xác định có hay không sự khác biệt giữa tế bào tạo từ phôi nhân bản vô tính so với tế bào tạo ra từ phôi thụ tinh bình thường. Mục đích của việc này là nhằm đảm bảo cho việc ứng dụng tế bào mầm từ phôi nhân bản vô tính trong điều trị y học trong tương lai.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn nghiên cứu về những phương pháp mới để chuyển gen tạo dòng mới trong động vật, và giải quyết những kỹ thuật mới để tạo ra thế hệ mới hoàn toàn khỏe mạnh và an toàn.
-Những thành tựu mà “Genomic Reprogramming” đạt được như ông vừa nêu sẽ khả dụng trong một tương lai gần?
-Hiện chúng tôi đã có thể tạo ra một cơ thể nhân bản và tế bào gốc động vật dễ dàng và từ tế bào gốc chúng tôi có thể tạo ra các loại tế bào khác nhau. Tuy nhiên, để từ tế bào gốc tạo ra một bộ phận cơ thể hoàn chỉnh thì vẫn còn trong nghiên cứu và rất phức tạp. Theo tôi, nhân loại sẽ phải mất hàng thập kỷ, thậm chí vài thập kỷ nữa thế giới mới có thể thành công trong kỹ thuật này. Thế nhưng xu hướng chung của các nhà nghiên cứu hiện nay là chuyển những gen không đào thải từ người sang động vật, ví dụ như heo (vì cơ quan nội tạng của heo có kích thước gần tương xứng với nguời). Sau đó ,chúng ta nhân bản những con heo đã được chuyển gen này và sử dụng nội tạng của nó cho người bệnh .
Về khả năng ứng dụng của kỹ thuật này, tôi nghĩ còn xa… Mặt khác, chúng còn phụ thuộc vào luật lệ của mỗi nước
TS Nguyễn Văn Thuận, sinh năm 1966. Ông tốt nghiệp bác sĩ thú y tại ĐH Nông Lâm TP.HCM năm 1990 và được giữ lại làm việc tại trường. Năm 2002, ông đậu tiến sĩ tại ĐH Kobe , Nhật với chuyên ngành sinh sản sinh lý. |
Ngoài ra, TS Nguyễn Văn Thuận còn là Giáo sư thỉnh giảng tại các ĐH Kobe, ĐH Kinki; thành viên phản biện cho các tạp chí khoa học: Biology ofReproduction (USA), Reproduction (USA), Theriogenology (USA), The Journal of Reproduction and Development (Japan Chủ tịch điều hành Hiệp Hội Công nghệ Sinh Học Sinh Sản các nước Á Châu(ARB)